
Tiếp theo của Giai thoại về Vũ Huấn: Người ăn mày xây trường nghĩa học (P.1)
Vũ Huấn (1838-1896) – người thôn Vũ, thị trấn Liễu Lâm, huyện Quan, tỉnh Sơn Đông – là một người ăn xin sống dưới đáy xã hội vào cuối triều đại nhà Thanh. Nhờ đi ăn xin, trải qua hơn 30 năm nỗ lực bền bỉ, ông đã xây được ba ngôi trường học miễn phí, mua được hơn ba trăm mẫu học điền (là ruộng công, lợi ích thu được đều dùng cho giáo dục), tích lũy được hơn một vạn quan tiền để mở trường học. Đây là sự việc có một không hai trong lịch sử Trung Quốc cũng như trong lịch sử giáo dục thế giới. Người đời sau ca tụng Vũ Huấn là “Thiên cổ nhất cái”, nghĩa là “Người ăn xin ngàn năm có một”.
Mục lục
Nghèo khổ nhưng tấm lòng bao la
Năm 29 tuổi, Vũ Huấn dùng tiền của nhiều năm dành dụm được mua rẻ 45 mẫu đất trũng bị nhiễm phèn, hát rằng:
“Chỉ cần tôi mở được trường nghĩa học, mua đất không sợ mua đất cát đất phèn, Phèn rồi sẽ hết, cát rồi sẽ trôi, ba năm sau sẽ hết phèn hết cat. Chỉ cần tôi mở được trường nghĩa học, cần đất chứ không sợ đất trũng; Nước sẽ rửa phèn, đất sẽ bồi đắp, ba năm sau đất trũng sẽ lấp đầy.“
Năm 38 tuổi, Sơn Đông bị hạn hán nặng, rất nhiều người chết đói. Vũ Huấn dùng tiền của mình mua 40 gánh cao lương cứu trợ trăm họ. Anh trai Vũ Huấn không có việc làm, thường tới mượn tiền ông, người nhà và bạn bè cũng nhao nhao đòi được giúp đỡ. Vũ Huấn nghiêm mặt nói: “Không kể họ hàng, không kể bạn bè, tôi còn phải xây thêm mấy trường nữa”.
Ngược lại, ở quê nhà có hai mẹ chồng nàng dâu sống đời quả phụ, không người thân thích, đi ăn xin để mưu sinh, Vũ Huấn hào phóng tặng cho hai mẹ con mười mẫu đất và nói:
“Người này tốt, người này tốt, tặng bà mười mẫu đất thấy còn chưa đủ. Người này hiếu, người này hiếu, cho mười mẫu đất mà nuôi dưỡng cụ già.“
Hi sinh hết thảy vì lập trường nghĩa học
Kiến tha lâu đầy tổ, trải qua nhiều năm vất vả, cuối cùng Vũ Huấn đã tích trữ được khá nhiều tiền. Ông nghe nói trong huyện có một vị cử nhân tên là Dương Thụ Phương, là người chính trực, danh thơm tiếng tốt, rất đáng tin cậy, muốn đem toàn bộ số tiền dành dụm được cất ở nhà họ Dương, bèn đến Dương phủ cầu kiến. Vì thấy ông chỉ là một người ăn mày, Dương Thụ Phương từ chối không gặp. Vũ Huấn quỳ mãi trước cổng suốt 2 ngày, cuối cùng khiến Dương cử nhân cảm động. Vũ Huấn lấy hết số tiền ăn xin tích góp được mang đến, bày tỏ nguyện vọng muốn góp vốn để mở trường nghĩa học. Dương Thụ Phương vô cùng nể phục, chẳng những bằng lòng giữ tiền cho ông mà còn tỏ ý muốn giúp ông mở trường.

Năm 1886, Vũ Huấn 49 tuổi, đã mua được 230 mẫu ruộng, tích lũy được hơn 3800 xâu tiền, quyết định sáng lập trường nghĩa học. Năm sau, một số địa chủ tiến bộ vì ngưỡng mộ lòng trượng nghĩa của Vũ Huấn đã cùng nhau hiến tặng đất đai để xây trường. Vũ Huấn bắt đầu đi nhiều nơi mua gỗ, gạch, ngói, tự mình áp tải. Mỗi ngày từ sáng đến tối, ông sống chung với các công nhân xây dựng, bưng gạch múc nước, việc gì cũng làm.
Năm 1888, Vũ Huấn dùng hơn 4000 xâu tiền, thành lập trường nghĩa học đầu tiên ngoài cửa Đông thị trấn Liễu Lâm, gọi là “Sùng Hiền nghĩa học” (nghĩa là “Trường nghĩa học quý trọng người hiền tài”).
Vũ Huấn đã dùng 30 năm để thực hiện lý tưởng của mình. Trong 30 năm ấy, ông chịu đủ đắng cay gian khổ nhưng trước sau vẫn kiên định, từng bước từng bước tiến đến mục tiêu. Sau khi xây được trường học, Vũ Huấn tự mình quỳ gối mời các tiến sĩ, cử nhân có học vấn về làm thầy, quỳ gối mời Dương Thụ Phương về làm Hiệu trưởng, quỳ gối mời các gia đình nghèo khó đưa con cháu đến trường học. Năm đó, Trường tuyển được hơn 50 học sinh, phân thành 2 lớp, không thu học phí. Trong ngày khai giảng, Vũ Huấn chuẩn bị tiệc rượu thịnh soạn chiêu đãi Hiệu trưởng, các thầy giáo và các thân hào, còn bản thân mình chỉ ở bên ngoài cúi đầu lạy tạ các quan khách, kiên quyết không chịu ngồi vào bàn tiệc. Hết tiệc rượu, ông chỉ ăn một ít canh thừa thịt nguội nhưng vẫn cảm thấy thỏa lòng.
Sau khi thành lập trường, tâm nguyện đã được thực hiện nhưng Vũ Huấn vẫn đi ăn xin mưu sinh như trước, sống trong miếu hoang. Tất cả học trò cùng quỳ gối mời ông về ở trong Trường nhưng ông cũng không đồng ý, nói: “Tôi sống thế này bản thân không cảm thấy khổ, chỉ cần các cháu cố gắng học tập là tôi vui sướng rồi”. Một ngày mưa to gió lớn, ngói trên miếu bị gió thổi, rơi xuống trúng Vũ Huấn khiến ông vỡ đầu chảy máu, nhưng ông vẫn thản nhiên: “Đánh vỡ đầu, rơi máu đỏ, nhưng ta đã xây xong trường nghĩa học rồi”.
Năm Quang Tự thứ mười sáu (1890), Vũ Huấn tài trợ òa thượng chùa Liễu Chứng 230 xâu tiền để mở trường học miễn phí thứ hai tại địa điểm mà nay là thôn Dương Nhị, thị xã Lâm Thanh, Trung Quốc.
Vũ Huấn toàn tâm toàn ý mở trường nghĩa học, vì nghĩ nếu lấy vợ sinh con thì tất cả đều khổ sở, nên ông cả đời không lấy vợ, không lập gia đình, trải qua cuộc sống cực khổ như trâu ngựa, nhưng không hề tiêu một xu nào cho bản thân. Vũ Huấn lúc tuổi già thanh danh lan xa, già trẻ trai gái khắp nơi đều bày tỏ lòng kính trọng đối với ông. Bất kể là đi tới đâu, cứ đến giờ ăn cơm là mọi người đều tranh nhau mời ông vào nhà cùng dùng bữa, chiêu đãi rất ân cần.

Năm 55 tuổi, Vũ Huấn đã thu thập được rất nhiều sách, sáng lập ra Hội đọc sách, dành cho những người không có tiền mua sách được tự do mượn đọc. Có khi ông còn mang sách lên huyện, mang đến các hội làng, chợ phiên để triển lãm, cho bà con mượn đọc. Ông còn in lại sách văn chương, sách học tập với số lượng lớn đem phát tặng miễn phí cho nông dân. Cùng năm ấy, quan Học bộ Thị lang tên là Dụ Đức đến Sơn Đông thị sát, Vũ Huấn chặn kiệu xin quan góp quỹ. Quan Thị lang ưng thuận, quyên góp 200 lạng bạc. Năm 1896, Vũ Huấn dùng 3000 xâu tiền của quan Ngự sử Lâm Thanh tên là Hạng Biện hiến tặng để xây dựng trường nghĩa học thứ ba, gọi là “Ngự sử Hạng nghĩa thục” (trường cũng được xây tại thị xã Lâm Thanh, tỉnh Sơn Đông, sau này được đổi tên thành “Trường Tiểu học Thực nghiệm Vũ Huấn”).
Thầy giáo ngủ quên, Vũ Huấn quỳ đợi bên giường
Dẫu là một người hành khất không biết chữ nhưng Vũ Huấn luôn giữ nếp tôn sư, trọng đạo. Ông rất quan tâm đến tình hình học tập của học sinh, thường hay đến trường quan sát. Đối với những thầy giáo dạy bảo học trò tận tình, ông dập đầu quỳ gối cảm tạ; đối với những học trò ham chơi, không lo học hành, ông quỳ xuống vừa khóc vừa khuyên: “Không cố gắng đọc sách thì không mặt mũi nào về nhà gặp cha mẹ”.
Một hôm, sáng sớm tới thăm trường học, trông thấy học trò đều đã đến lớp mà không thấy thầy giáo đâu. Vũ Huấn đứng đợi một hồi vẫn không thấy thầy giáo, bèn tìm đến phòng của thầy thì thấy người thầy đang ngủ mê say. Vũ Huấn không tức giận mà lặng yên đến bên thầy giáo, quỳ xuống và chờ mãi ở đó. Một hồi lâu vẫn không thấy thầy thức dậy, nguyên là thầy giáo đêm qua vô cùng mệt nhọc nên sáng ra đã ngủ quên mất, ông bèn ho một tiếng, thầy vẫn chưa dậy. Ông liền phải ho lên mấy lần, thầy giáo mới giật mình trợn mắt nhìn. Thấy Vũ Huấn đang quỳ bên giường, thầy giáo vô cùng kinh ngạc. Thầy giáo vội vàng bật dậy khỏi giường đỡ Vũ Huấn lên, Vũ Huấn lúc này đã nước mắt lưng tròng.
Người thầy nóng lòng nói: “Thật hổ thẹn, hổ thẹn, vô cùng xin lỗi, xin lỗi”. Vũ Huấn lau nước mắt trả lời: “Không sao, không sao, biết là được rồi, biết là được rồi. Đi học không dễ, dạy dỗ cũng không dễ. Tôi chính là đang thi lễ với thầy đây mà”.
Người thầy lập tức đứng dậy đi đến lớp, phòng học lại vang lên âm thanh học trò đọc bài lúc trầm lúc bổng. Vũ Huấn lặng lẽ lui ra, từ xa vẳng lại tiếng hát của ông: “Thầy giáo ngủ mê, học trò huyên náo, ta đến quỳ cầu, mọi chuyện lại êm xuôi”.

Còn có một thầy xin nghỉ để về quê, quá hạn mà chưa quay lại trường. Vũ Huấn đi bộ 30 cây số tới nhà thầy, một mình chờ ngoài cửa suốt đêm. Thầy giáo xấu hổ vô cùng, không dám nghỉ phép quá hạn nữa. Tất cả thầy trò đều cảm động vì lòng thành khẩn của Vũ Huấn nên không ai sơ xuất lơ là, dù chỉ trong khoảnh khắc. Tác phong dạy và học của cả Trường trở nên vô cùng chuyên cần và nghiêm túc.
Người ăn mày duy nhất được đưa vào chính sử
Quan Tuần phủ tên là Trương Diệu, nghe nói Vũ Huấn làm việc nghĩa, bèn trịnh trọng mời ông đến gặp mặt. Ông quần áo tả tơi đi đến phủ Tế Nam. Khi gặp mặt, ông vừa nói chuyện một cách đĩnh đạc với Trương Tuần phủ, vừa se chỉ không ngừng. Sự thành thật và chất phác của ông khiến quan Tuần phủ rất cảm động, liền hạ lệnh miễn thu thuế Trường nghĩa học và miễn lao dịch, hơn nữa còn hiến tặng 200 lượng bạc, đồng thời tấu xin vua ban cho ông tấm biển “Lạc thiện hảo thi” (nghĩa là “Thích làm việc thiện và hay bố thí”). Triều đình nhà Thanh ban cho Trường danh hiệu “Nghĩa học chính” (nghĩa là “Trường nghĩa học chân chính”), ban thưởng cho ông bộ quan phục. Đó vốn là vinh dự không gì sánh nổi, nhưng trước mặt quan khâm sai, Vũ Huấn không muốn quỳ xuống tạ ơn, cũng không muốn mặc quan phục. Ông nói: “Trường nghĩa học chân chính, không phải phong danh hiệu, quan phục cũng không hữu dụng. Trong lòng tôi mãi mãi chỉ mong dựng được trường nghĩa học mà thôi”.
Năm 1896, không lâu sau khi Trường học miễn phí thứ ba được thành lập, Vũ Huấn mắc bệnh nặng nhưng vẫn không chịu ở trong phòng, chỉ nằm dưới mái hiên trường học để mỗi ngày đều được nghe tiếng học trò đọc sách. Nửa tháng sau, ngày 23 tháng 4 năm 1896, Vũ Huấn mỉm cười ra đi trong tiếng đọc sách vang vang của học trò, hưởng thọ 58 tuổi. Nghe theo di chúc, người ta mai táng ông ngay bên cạnh Trường “Sùng Hiền nghĩa học”, thị trấn Liễu Lâm. Vào ngày đưa tang, dân chúng các thôn không ai bảo ai đều tự mình lập đàn tế lễ suốt dọc 30 cây số, số người cùng đưa linh cữu lên tới cả vạn, người đến xem hai bên đường đông nghìn nghịt, cả thầy lẫn trò thương khóc rung trời, người dân ai nấy hay tin đều rơi lệ. Cũng trong năm đó, Lương Khải Siêu đã viết truyện về Vũ Huấn, một người ăn mày nghĩa sĩ, dẫu đã qua đời nhưng thành tựu ông để lại không hề biến mất mà trái lại “Dấu tích nhân nghĩa của Vũ công, chính là đại hiển hậu thế”.

Mười năm sau, Triều đình nhà Thanh lệnh cho Quốc Sử Quán lấy cuộc đời Vũ Huấn mà viết thành truyện, đồng thời lệnh cho người chăm lo tu sửa phần mộ của ông, xây dựng nhà thờ, lập bia tưởng niệm. Những thành tích của Vũ Huấn được người đời hết sức kính phục, rất nhiều học giả danh tiếng đã viết về ông, nhiều nơi trong cả nước lấy tên Vũ Huấn để đặt tên cho các trường học.
Năm 1909, Tuần phủ Sơn Đông Viên Thụ Huân tấu lên Triều đình xin xây Trung Nghĩa từ, tuyên dương Vũ Huấn. Viên Thụ Huân nói: “Thần ngu muội cho rằng hành động của Vũ Huấn có thể nói là đại nghĩa, tấm lòng của Vũ Huấn có thể nói là chí nhân. Vậy nên cúi đầu thỉnh cầu thiên ân, đặc biệt giáng thánh chỉ, tuyên giao sử quán ghi chép vào sử sách, dùng đó mà tuyên dương đạo hạnh hiếm có này”. Không lâu sau, nghĩa cử của Vũ Huấn được Quốc sử quán ghi vào “Hiếu nghĩa truyền nội”.
“Thanh sử cảo” (Bản thảo lịch sử nhà Thanh) cũng hết lời ngợi khen tinh thần hiếu thuận với mẹ, tôn kính thầy giáo của Vũ Huấn, làm ăn mày mà xây dựng và quản lý trường nghĩa học, cứu khổ những người bần hàn, đó là hành động đại nhân, đại nghĩa. Một người hành khất nghĩa hiệp trong dân gian, quyết chí lòng chẳng đổi, phẩm cách cao thượng được ghi vào sử sách, từ trước tới nay chỉ duy có Vũ Huấn.
Năm 1934, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc tổ chức lễ kỷ niệm 97 tuổi Vũ Huấn, Tưởng Giới Thạch, Đới Quý Đào, Phùng Ngọc Tường, Đoạn Kỳ Thụy, Thái Nguyên Bồi, Úc Đạt Phu,… cùng giới nhân sĩ văn hóa, chính trị, quân sự dùng nhiều hình thức để tưởng niệm Vũ Huấn, cho làm tượng Vũ Huấn đặt cùng nơi với Khổng Tử. Năm 1945, tại phía Nam thị trấn Liễu Lâm khởi công xây dựng Trường Sư phạm Vũ Huấn.
Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch trong bài phát biểu có lời tựa “Luận bàn sau khi nghe chuyện Vũ Huấn tiên sinh” đã khen ngợi tinh thần của Vũ Huấn: “Đem sức người hành khất mà khởi lập nên nghiệp, trọn tài vẹn đức. Thân chưa được học hành mà lưu lại ân trạch tốt đẹp phụng sự thế nhân”. Trong thời kỳ Dân Quốc, Vũ Huấn trở thành nhân vật nổi tiếng trong sách giáo khoa Dân Quốc, nhà nhà đều biết.

Thế nhưng, mùa hè năm 1966, Hồng vệ binh của huyện Quán tỉnh Sơn Đông mang theo búa, xà-beng đào phần mộ Vũ Huấn lên, thiêu hủy hài cốt của ông; nhà thờ Vũ Huấn, tượng Vũ Huấn làm bằng bạch ngọc và cả tấm biển “Nghĩa Học Chính” đều bị phá hoại.
Liên Hoa (t/h)