Ý nghĩa chân thực của Cầm Kỳ Thư Họa

Ý nghĩa chân thực của Cầm Kỳ Thư Họa

Cầm kỳ thư họa là bốn loại hình văn hóa nghệ thuật lớn của Trung Quốc cổ đại, có lịch sử lâu đời và thâm sâu, chứa đựng sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ quan “thiên nhân hợp nhất”. Cầm Kỳ Thư Họa là những kỹ năng mà các bậc quân tử khiêm tốn tu thân dưỡng tính cần phải nắm vững từ xưa đến nay. 

Trong quyển thứ 5, tác phẩm “Bắc mộng tỏa ngôn” của Tôn Quang Hiến (người sống ở thời Tống của Trung Quốc) có ghi (tạm dịch) là: “Đường Cao Trắc, Bành Châu Nhân, thông minh, học nhiều biết rộng, nét bút lông tung hoành ngang dọc, còn nếu liệt kê từng điều thiên văn, cầm kỳ thi họa, sáo ống, hồ cầm, thì sánh ngang Chu Dị triều Lương”. Từ tác phẩm này, dần dần câu 4 chữ “cầm kì thư họa” trở thành một thành ngữ cố định chỉ những người tài hoa, kiến thức rộng trong nhiều lĩnh vực, đa tài và được vận dụng tới thời nay.

Cầm

Hình ảnh nhạc cụ Cổ cầm
Hình ảnh nhạc cụ Cổ cầm (ảnh: internet)

“Cầm” trong “Cầm Kỳ Thư Họa” ý nghĩa để chỉ loại nhạc cụ “Cổ cầm”, cũng gọi là “thất huyền cầm”, ngoài ra nó còn có những tên gọi khác như “lục ỷ”, “ty đồng” v.v. Tuy nhiên ngày nay được dùng để chỉ chung các loại đàn dây.

Trong “Kinh sử thông ngôn” có chép : “Phục Hy thấy năm vì sao rơi trên cây phượng, phượng bay đến đậu. Phượng hoàng là vua của các loài chim. Chỉ ăn trúc, chỉ đậu trên cây phượng, chỉ uống nước Lệ Tuyền. Phục Hy biết rằng cây phượng là loại gỗ tốt nhất trong các loại cây, nên dùng làm nhạc cụ để chơi nhạc tao nhã. Phục Hy chế tạo ra cổ cầm, còn gọi là Dao cầm, nghĩa là nhạc Dao trì, dựa theo số lượng các tiết khí, Chu thiên, Lương nghi và ngũ hành.” Quá trình chế tác Cổ cầm của Phục Hy phản ánh lòng tôn kính của người xưa đối với các vị thần trên trời và dưới đất, đúng như lời Lão Tử đã nói: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”.

Cổ cầm dài khoảng 120–125 cm, rộng khoảng 20 cm, dày khoảng 6 cm. Hình dáng của đàn được mô phỏng theo hình dáng phượng hoàng, toàn thân đàn tương ứng với thân phượng hoàng bao gồm: đầu đàn, cổ đàn, vai đàn, lưng đàn, đuôi đàn, chân đàn.

Cổ cầm là nhạc cụ dây gảy sớm nhất của người Hán và là báu vật của nền văn hóa Hán. Những đồ vật thực tế được khai quật từ Lăng mộ Tăng Hầu Nghĩa ở Hồ Bắc có niên đại hơn 2.400 năm. Từ thời Đường và Tống, những cây đàn cổ cầm tinh xảo đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. 

Âm thanh của đàn Cổ cầm rất độc đáo, hầu hết mọi người đều có thể cảm nhận được sự tĩnh lặng và xa xăm của đàn cổ cầm khi nghe nhạc của nó. 

Ba loại âm thanh của Cổ cầm: âm tản, âm bội và âm ép, đều rất nhỏ. Âm thanh rời rạc, sâu lắng và xa xăm, khiến người ta nhớ lại thời xa xưa; âm bội của nó giống như âm thanh của thiên nhiên, mang lại cảm giác mát mẻ và bất tử; âm thanh nén rất phong phú, với nhịp điệu kéo dài dưới ngón tay, tinh tế và dài, đôi khi giống như lời nói của con người, như thể chúng có thể trò chuyện, và đôi khi giống như cảm xúc trong lòng người, thanh thoát và thay đổi. Âm bội giống như bầu trời, âm thanh nén giống như con người, âm thanh phân tán giống như trái đất. Chúng được gọi là ba âm thanh của thiên, địa, nhân. Do đó, đàn Cổ cầm có thể chơi được ba loại âm thanh, có thể biểu đạt tư tưởng của con người và cũng truyền đạt được đạo lý của trời, đất và vũ trụ. 

Trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài của xã hội Trung Hoa cổ đại, “cầm, cờ, thư, họa” luôn được coi là con đường duy nhất để giới trí thức và học giả rèn luyện nhân cách. Cổ cầm đứng đầu trong số đó vì những phẩm chất âm nhạc trong trẻo, hài hòa, giản dị và tao nhã của nó thể hiện thái độ kiêu hãnh và thoát tục của người học giả đối với cuộc sống.

Những người theo Nho giáo tin rằng đàn Cổ cầm có thể truyền đạt chân lý, tượng trưng cho đức hạnh, làm sáng tỏ tham vọng và làm dịu tâm trí, là nhạc cụ tích hợp sức mạnh của tất cả các bản nhạc và thống nhất sự trang nghiêm của sự thanh lịch tuyệt vời. Những người theo Đạo giáo yêu thích đàn Cổ cầm vì nó có thể nuôi dưỡng tâm trí và nuôi dưỡng bản chất, và nó có thể giao tiếp với các vị thần.

Vận ý của cổ cầm dạt dào tuôn chảy. Cổ nhân đã từng lưu lại rất nhiều áng thơ cũng như tranh vẽ ưu nhã thoát tục. Trong “Kinh Thi” có viết:

“Ngã hữu gia tân, cổ sắt cổ cầm”

Diễn nghĩa:

“Ta có khách quý viếng thăm
Gảy đàn cầm sắt thết đãi”

“Ta có khách quý viếng thăm, Gảy đàn cầm sắt thết đãi” (Ảnh minh hoạ)

Cổ cầm với cảnh giới âm nhạc tường hòa, chí thiện chí mỹ, khai sáng tâm linh của con người, trong thanh tĩnh chạm đến cảnh giới người và Thần tương hợp, cảm ngộ nội hàm của Đức và cảnh giới của Đạo với âm nhạc hoàn mỹ nhất.

Kỳ 

KỳKỳ là chỉ “vi kỳ” (cờ vây). Cờ vây là loại cờ cổ, được chơi cách đây khoảng hơn 4000 năm. Khởi thủy của môn cờ bắt đầu từ giấc mơ của vua Nghiêu về việc xem chơi cờ giữa Hoàng Đế (người mở đầu thời Ngũ Đế) với vị tiên Dung Thành. Nhà vua đang thấy tiên Dung Thành chơi một loại cờ gồm một bàn cờ và các quân trắng đen bèn thỉnh cầu tiên dạy cờ cho mình. Đang chơi cờ hay bỗng vua Nghiêu tỉnh lại. Nhà vua ngẫm ra thấy hay quá bèn tìm cách nhớ lại và bổ khuyết thêm các quy tắc, luật lệ và sáng tạo ra môn cờ vây, vì mục đích của nó là vây chiếm lãnh thổ, đất đai. Sau đó, cờ vây được thái tử Đan Chu, con của vua Nghiêu truyền bá khắp thiên hạ. 

Trong “Bác Vật Chí” thời nhà Tấn, Trương Hoa có viết như sau: “Vua Nghiêu dùng cờ vây để dạy con là Đan Chu”. Trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Quan Công đã chơi cờ vây với thuộc hạ trong khi để cho Hoa Đà nạo xương cánh tay chữa vết thương. 

Cổ nhân dùng cờ vây để tu thân dưỡng tính, tăng cường trí huệ
Cổ nhân dùng cờ vây để tu thân dưỡng tính, tăng cường trí huệ (ảnh: internet)

Cổ nhân dùng cờ vây để tu thân dưỡng tính, tăng cường trí huệ. Ở những người chơi cờ cần có sự thận trọng, điềm tĩnh, thông minh trong mọi trường hợp. Theo quan niệm của người xưa, cờ là một trò chơi trí tuệ. Vì vậy biết chơi cờ là một trong những yêu cầu quan trọng với những người tri thức, danh giá trong xã hội. 

Hơn nữa, cờ vây còn có mối quan hệ với dịch lý thiên tượng, sách lược binh pháp, an bang trị quốc v.v. Bàn cờ vây tượng trưng cho vũ trụ, điểm Thiên Nguyên ở giữa đại diện cho trung tâm của vũ trụ. Ngoài điểm Thiên Nguyên, toàn bộ bàn cờ có 360 điểm khác đại diện cho 360 thiên thể khác nhau. Con số 360 này vừa khớp với 360 ngày theo Âm lịch. 

Bốn góc của bàn cờ tượng trưng cho bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một năm. Những quân cờ trắng đen tượng trưng cho sự thay đổi luân phiên giữa ngày và đêm. 

Có thể nói một bàn cờ nhỏ bé chứa đựng toàn bộ vũ trụ và trời đất. Cờ vây huyền diệu vô cùng, trên bàn cờ vây với bán kính chưa đến hai thước bao gồm 19 đường dọc và 19 đường ngang giao nhau được phân định rõ ràng. 361 quân cờ trắng đen trông như vô trật tự nhưng lại rất có trật tự, biến huyễn vô thường, bao hàm vạn sự vạn vật. 

Luật chơi của cờ vây đơn giản nhưng biến hóa vô cùng các giai đoạn trong ván cờ phải thể hiện sự mềm dẻo, khôn ngoan, nhẫn nại, biết bỏ cái nhỏ để giành cái lớn, biết hy sinh tiểu tiết để giành đại cục nhằm dẫn tới thắng lợi, được đối phương “tâm phục khẩu phục”. 

Trong lịch sử có nhiều nhà tiên tri. Gia Cát Lượng thời Tam Quốc từng viết trong “Vi Kỳ Ca” như sau: “Trời tựa như cái lọng tròn, đất tựa như bàn cờ vây”. Đời người muôn màu muôn vẻ cũng như một ván cờ. Gia Cát Lượng quan sát vạn sự vạn vật nơi thế gian giác ngộ thiên tượng biến hóa. Ông cho rằng những chuyện xảy ra ở thế gian cũng giống như việc cầm quân cờ lên hay bỏ quân cờ xuống, từ đó thể hiện ra phong thái siêu nhiên thoát tục của bậc trí giả. 

Thư (Thi)

"Lan đình tập tự" tác phẩm của nhà thư pháp Vương Hy Chi
“Lan đình tập tự” tác phẩm của nhà thư pháp Vương Hy Chi (ảnh: internet)

“Thư” là chỉ thư pháp, chính là nghệ thuật sử dụng bút lông để viết các thể chữ Hán như triện, lệ, chính, hành. Về kỹ pháp nhấn mạnh vào cách cầm bút, dùng bút, nét chữ, kết cấu, thủ pháp dùng mực, bố cục văn chương v.v. Chúng được thể hiện trong khoảng cách giữa các dòng chữ, nét bút lả lướt như nước chảy mây trôi, bố cục xuyên suốt, sự hài hòa giữa hình thức và nội dung. Tất cả những yếu tố này tạo nên vẻ đẹp hài hòa trong nghệ thuật thư pháp. Mỗi một kiểu chữ mang theo phong thái khác nhau với nét đẹp ưu nhã, nhẹ nhàng lả lướt.

Thư pháp Trung Quốc là một nghệ thuật biểu đạt độc đáo của người Hán và được ca ngợi là: thơ không lời, vũ đạo vô hình, tranh không tranh, nhạc không tiếng động, v.v.

Thư pháp là một hình thức nghệ thuật thể hiện vẻ đẹp văn học độc đáo của Trung Quốc và các quốc gia khu vực lân cận chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc, trong đó có Việt Nam.

Thư pháp Trung Quốc từ xưa vẫn luôn chú trọng vào khí chất và thần vận của chữ viết, đem đến cho người xem sức tưởng tượng vô hạn cùng với cảm thụ nội tâm và tinh thần khoáng đãng bao la vô tận. Thư pháp cũng có mối liên hệ mật thiết với đặc trưng tính cách, chí hướng và cảnh giới tư tưởng của người viết thư pháp. Cổ nhân đề xướng: “Học làm người trước khi viết chữ, tâm chính thì nét bút sẽ chính.” Trong “Thư Đạo” có viết: “Tác phẩm thư pháp từ xưa đến nay đều xét phẩm chất con người. Do đó, học không tới và không đủ nhân phẩm thì không thể đàm luận về thư pháp. Đây cũng là đạo lý của thư pháp vậy!”

Còn nói về “thi” (trong cầm kỳ thi họa) là có ý nói về “thơ” hay “thơ ca”. Thơ mang bản sắc riêng khi được khởi tạo bằng ngôn ngữ, chữ viết riêng của mỗi dân tộc. Trong quan niệm ngày trước, những người làm thơ phú thường là những người “có học”. Thuộc tầng lớp trí thức, có tâm hồn thanh cao và phong thái đạo mạo, tài giỏi hơn người. 

Thơ ca còn là tiếng nói chung của nhân loại, vượt qua mọi rào cản về ngôn ngữ, văn hóa và địa lý. Những vần thơ chứa đựng những cảm xúc chân thành, những rung động tinh tế của con người trước cuộc sống. Thơ ca giúp chúng ta hiểu được những niềm vui, nỗi buồn, những ước mơ và khát vọng của con người ở mọi nơi trên thế giới.

Họa 

Họa có nghĩa là vẽ, là ngôn ngữ để truyền đạt ý tưởng của người nghệ sĩ qua các tác phẩm hội hoạ. Công cụ hội hoạ truyền thống bao gồm bút lông, mực, thuốc màu, giấy lớn, v.v. Đề tài hội hoạ có thể chia thành người, vật, phong cảnh, hoa cỏ, v.v. Kỹ pháp có thể phân thành vẽ chân dung và tả ý. Các bức họa thường đi kèm với thư pháp, với các đường vẽ có thể là nét thẳng, mềm mại, sắc nét hoặc thanh lịch nhẹ nhàng; công phu dùng bút và mực, sự nhanh chậm nặng nhẹ khi chấm bút lông vào mực sẽ tạo nên những đường nét biến hóa khác nhau như cương trực, nhu hòa, nghiêm chỉnh, siêu phàm thoát tục v.v tùy thuộc vào ý vị và tư thái của nghệ sĩ. 

Người vẽ cần phải đạt đến mức “đắc tâm ứng thủ”, “ý đáo bút tùy” (trong tâm nghĩ đến thứ gì thì tay liền vẽ ra thứ ấy), yêu cầu vẽ phải sinh động, truyền tải được cái Thần, sinh ra ý vị và thi vị bao la vô tận. Ví như, Tào Trọng Đạt vào thời Bắc Tề rất giỏi vẽ tranh Phật. Ông đã vẽ rất nhiều bức họa về Phật Đà, Bồ Tát, Thần Tiên, bút pháp mạnh mẽ tầng tầng lớp lớp. Những nếp gấp quần áo của nhân vật trong bức họa được ông vẽ vô cùng chi tiết tỉ mỉ, đường gấu áo mở ra trông như dòng nước chảy, cho nên người đời gọi là “Tào y xuất thủy”. Ngô Đạo Tử thời nhà Đường được tôn là “nhất đại họa thánh”. Ông là bậc thầy vẽ tượng Phật, Thần Tiên và vũ trụ bao la. Bút pháp đạt đến trình độ siêu phàm thoát tục, quần áo của nhân vật tung bay trong gió, đường nét mạnh mẽ, người đời gọi là ”lan diệp miêu”, nét bút đạt đến hiệu quả y phục của Thần Tiên bay lượn, bốn bề lộng gió cho nên người ta gọi ông là “Ngô đới đương phong”. 

Trong sáng tác hội họa có tác phẩm thể hiện khung cảnh thần thánh quang minh, Thần Phật trang nghiêm, cũng có tác phẩm thể hiện cốt cách của những bậc chí sỹ nhân đức ôm giữ hoài bão, có tác phẩm tượng trưng cho bốn mùa có mai, lan, cúc, trúc v.v. khơi dậy tín ngưỡng Thần Phật của con người, kiên trì giữ lấy phẩm đức, hướng thiện và hướng thượng. 

Hội họa Trung Quốc cũng tương phụ tương thành với thơ văn có nội hàm phong phú nên được gọi là “trong thơ có tranh, trong tranh có thơ”. Giống như Vương Duy thời nhà Đường cả đời “không màng đến việc gì”, trong bức tranh “Sơn Âm Đồ” của ông hay trong bức họa “Mặc Mai” của ông có đề thơ như sau: “Bất yếu nhân khoa nhan sắc hảo, chỉ lưu thanh khí mãn càn khôn” (diễn nghĩa: không cần người khen nhan sắc đẹp, chỉ lưu lại khí chất ưu nhã tràn ngập càn khôn). Những tác phẩm hội họa này để lại ý vị sâu sắc theo thời gian giúp người ta cảm thụ được “ý nghĩa chân chính” của sinh mệnh và sự kỳ diệu của thế giới xung quanh.

Một phần bức “Sơn âm đồ” – Vương Duy, thời Đường (Ảnh: epochtimes)
Một phần bức “Sơn âm đồ” – Vương Duy, thời Đường (Ảnh: epochtimes)

Cầm Kỳ Thư Họa tinh tế mỹ diệu không gì có thể so sánh được, nó nuôi dưỡng tâm hồn, rèn luyện trí tuệ, tu dưỡng đạo đức, xứng đáng là một đóa hoa quý trong nền nghệ thuật. Từ trong đó, chúng ta có thể lĩnh ngộ ý nghĩa thật sự bên trong của văn hóa truyền thống. Kỳ thực, hết thảy các bộ môn nghệ thuật chính thống đều giống như vậy, chúng bao hàm những đạo lý thâm sâu về vũ trụ nhân sinh, khai sáng cảm ngộ về ý nghĩa chân thật của đời người và nhân cách đạo đức lý tưởng hoàn mỹ, tìm kiếm Đạo trời, truy cầu cảnh giới an tỉnh cao xa.

Hân Liên (t/h)

Bài viết liên quan
Xem thêm