Tìm hiểu các nhân vật trong bốn khổ thơ về tác phẩm “Tây Du Ký”

“Tây Du Ký” là tác phẩm nổi tiếng của Ngô Thừa Ân, gồm 100 hồi. Nội dung của tác phẩm viết về hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh của Đường Tăng. Sau khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung đã cùng Trư Bát Giới, Sa Ngộ Tĩnh hộ tống Đường Tăng sang Tây Phương thỉnh kinh, dọc đường đi đã hàng ma, phục yêu, trải qua 81 kiếp nạn, cuối cùng thành chính quả. Tác phẩm này cũng đã được chuyển thể thành phim và đạt được tiếng vang lớn.

Hình ảnh khắc họa thầy trò Đường Tăng trong phim “Tây Du Ký” (Ảnh: songbinhan.com)

Bốn khổ thơ về “Tây Du Ký”

“Tây Du Ký” là một tác phẩm nổi tiếng để lại nhiều dấu ấn đặc biệt trong lòng người đọc. Để bày tỏ cảm nhận về những dấu ấn đặc biệt đó, đã có những người đọc thông qua tài năng văn chương của mình mà sáng tác thơ ca. Bài viết này xin giới thiệu một trong những tác phẩm như vậy, một bài thơ viết về “Tây Du Ký” do tác giả Lục Văn sáng tác.

Đường Tam Tạng

Phong xan lộ túc khứ Tây thiên,
Nhất lộ Tây hành yêu ma lan;
Quá liễu cửu cửu bát nhất nạn,
Khổ tận cam lai đại viên mãn.

Tôn Ngộ Không

Hỏa nhãn kim tinh Tôn Ngộ Không,
Trung tâm cảnh cảnh bảo Đường Tăng;
Hàng yêu trừ quái bản lĩnh đại,
Hoàn thành sứ mệnh hồi thiên đình.

Trư Bát Giới

Hỉ hoan cật hát lao tao đa,
Thô tâm đại ý lão phạm thác;
Tổng toán tẩu hoàn Tây thiên lộ,
Cải chính thác ngộ hồi thiên quốc.

Sa Hòa Thượng

Cân trước Đường Tăng khứ tây thiên,
Cật khổ thụ luy vô oán ngôn;
Quá liễu nhất nan hựu nhất nạn,
Chung vu thủ đắc chân kinh hoàn.

Tạm dịch:

Đường Tam Tạng

Ăn gió nằm sương hướng Tây thiên,
Dọc đường yêu quái nổi can ngăn;
Vượt qua chín chín tám mốt nạn,
Khổ tận cam lai đại viên mãn.

Tôn Ngộ Không

Hỏa nhãn kim tinh Tôn Ngộ Không,
Lòng trung sáng tỏ bảo Đường Tăng;
Hàng yêu trừ ma đại bản lĩnh,
Hoàn thành sứ mệnh về thiên đình.

Trư Bát Giới

Ham ăn ham ngủ tính kêu ca,
Vô tâm vô ý thường chiêu ma;
Cuối cùng theo đường Tây thiên lộ,
Sửa chữa lỗi lầm trở về nhà.

Sa Hòa Thượng

Bảo hộ Đường Tăng sang Tây thiên,
Chịu khổ chịu mệt chí càng kiên;
Vượt qua nạn này đến nạn khác,
Lấy được chân kinh lại hồi thiên.

Câu chuyện ẩn sau tên gọi của các nhân vật

Kỳ thực, các câu thơ trên đã khái quát quá trình tu luyện của mỗi nhân vật cũng như chính quả mà họ đạt được. Vì thế, nhân bài thơ này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu đôi chút về lai lịch và quá trình tu luyện thông qua tên của các nhân vật cũng như một số chi tiết từ bốn đoạn thơ trên.

Đường Tăng

Đường Tăng vốn là đệ tử thứ hai của Phật Tổ Như Lai, tên gọi là Kim Thiền Tử (con ve vàng), ẩn dụ về quá trình tu luyện (tựa như con ve thoát xác, thoát bỏ thân phàm mà tu thành chính quả). Đường Tăng chỉ vì ngủ gật không nghe Phật Như Lai giảng Pháp, phạm tội khinh mạn Phật Pháp mà bị phạt đưa đến Đông Thổ, trải qua 10 đời tu luyện nhưng vẫn không tu thành, cuối cùng mới có được cơ duyên, được vua Đường ủy thác đi Tây Phương thỉnh kinh. Cái tên “Đường Tam Tạng” là do vua Đường ban cho họ “Đường”, còn “Tam Tạng” là hiệu.

Từ đoạn thơ viết về Đường Tăng phía trên, có thể thấy con đường đi thỉnh kinh đầy khổ nạn của Đường Tăng khi phải trải qua 81 nạn, nhưng lúc nào Ông cũng nhất tâm chính niệm, kiên định mang chân kinh trở về, từ đầu đến cuối chưa từng mất phương hướng (Quá liễu cửu cửu bát nhất nạn/ Khổ tận cam lai đại viên mãn).

Nhờ đó, kết thúc hành trình thỉnh kinh, Đường Tăng được Như Lai phong cho chính quả là “Chiên Đàn Công Đức Phật”.

Ba đồ đệ

Ba đồ đệ của Đường Tăng lần lượt có tên: Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng (Trư Bát Giới), Sa Ngộ Tĩnh. Nhìn vào ba cái tên này – “Không”, “Năng” và “Tĩnh”, có thể thấy chúng đại biểu cho các tiêu chuẩn tâm tính khác nhau và quả vị mà ba đồ đệ đạt được trong tu luyện.

Tôn Ngộ Không

Xét từ cái tên, chữ “Không”, ngoài ý nghĩa đơn thuần là “không có gì cả”, nó còn mang nghĩa “xả bỏ và tống khứ tất cả tâm chấp trước và dục vọng”.

Thật vậy, khởi điểm của Tôn Ngộ Không có rất nhiều cái “không”: không có thân thể người thường (chỉ có hiện thân là khỉ), không có kinh nghiệm của con người, đồng thời không có nhiều quan niệm của người thường. Ngoài ra, Tôn Ngộ Không còn là một người học hỏi nhanh chóng và linh thông.

Xét từ đoạn thơ về Tôn Ngộ Không phía trên, có thể dễ dàng thấy được đặc điểm và quá trình tu hành của nhân vật này: Đầu tiên, Tôn Ngộ Không đã đạt được thiên nhãn thông – con mắt của trí huệ, khiến mọi loại yêu ma đều phải hiện nguyên hình trước con mắt của Tôn Ngộ Không (Hỏa nhãn kim tinh). Sau đó, trong quá trình đi thỉnh kinh, Tôn Ngộ Không trảm yêu trừ ma và bảo vệ sư phụ của mình trong cuộc hành trình sang Tây Trúc thỉnh kinh (Lòng trung sáng tỏ bảo Đường Tăng). Suốt hành trình, Tôn Ngộ Không luôn một lòng kiên định và không hề do dự (Hàng yêu trừ ma đại bản lĩnh/ Hoàn thành sứ mệnh về thiên đình).

Nhờ đó mà cuối cùng, Tôn Ngộ Không đã thành tựu chính quả và được Phật Tổ phong làm “Đấu Chiến Thắng Phật”.

Trư Ngộ Năng (còn gọi là Trư Bát Giới)

Chữ “Năng” ý chỉ công năng, là sản phẩm phụ trong quá trình tu luyện, chỉ là một điều nhỏ nhoi đạt được ở tầng thứ thấp, không phải điều cần chú trọng khi tu luyện ở tầng thứ cao. Tu luyện đích thực là tu tâm và tống khứ đi các chấp trước của người thường. Điều này có nghĩa, Trư Bát Giới có thể có một chút công năng ở tầng thấp, nhưng những gì ở tầng cao hơn thì chưa đạt đến được, âu cũng bởi Trư Bát Giới còn nhiều nhân tâm.

Thực ra, Trư Bát Giới là người có nhân tâm mạnh mẽ nhất trong ba đồ đệ của Đường Tăng:

Đầu tiên phải kể đến sắc tâm của anh. Anh đã từng là tướng trên Thiên đình, nhưng do khởi sắc tâm với Hằng Nga mà bị đánh hạ từ Thiên đình xuống thế giới con người và phải mang thân heo. Tuy nhiên, sắc tâm của Trư Bát Giới vẫn không thay đổi sau khi đến nhân gian.

Ngoài ra, Trư Bát Giới còn có tâm ham tiền, tật đố, tham ăn, tham ngủ… (Ham ăn ham ngủ tính kêu ca).

Với nhiều nhân tâm như vậy, Trư Bát Giới thường “Vô tâm vô ý thường chiêu ma”. Do đó, cuối cùng, mặc dù đã “theo đường Tây thiên lộ”, “Sửa chữa lỗi lầm trở về nhà”, Trư Bát Giới không tu thành chính quả mà chỉ trở thành “Tịnh Đàm Sứ Giả” – chịu trách nhiệm về thức ăn tại Tịnh Đàm. Trư Bát Giới than phiền với Phật Tổ: “Tất cả họ đều thành Phật, tại sao tôi chỉ trở thành sứ giả?”. Phật Tổ nói rằng bởi vì anh quá tham ăn.

Sa Ngộ Tĩnh

Chữ “Tĩnh” mang nghĩa “tâm thanh tịnh và trong sạch”, hay còn một lớp nghĩa khác là “loại trừ nhân tâm”.

Quả thực, từ đoạn thơ về Sa Ngộ Tĩnh phía trên, có thể thấy sau khi trở thành đồ đệ của Đường Tăng, Sa Ngộ Tĩnh đã cố gắng chịu khổ, trừ bỏ nhân tâm của mình như thế nào: dắt ngựa, mang hành lý, làm việc rất cực nhọc và không tỏ ra giận dữ khi bị phê bình (Chịu khổ chịu mệt chí càng kiên). Không những vậy, Sa Ngộ Tĩnh còn theo sư phụ của mình một cách kiên định trong suốt cuộc hành trình (Bảo hộ Đường Tăng sang Tây thiên) tới khi đến đích (Vượt qua nạn này đến nạn khác/ Lấy được chân kinh lại hồi thiên).

Mặc dù có công nhưng vì công lao của Sa Ngộ Tĩnh không to lớn bằng Đại sư huynh nên Sa Ngộ Tĩnh chỉ thành tựu “Kim Thân La Hán”.

Có thể nói, “Tây Du Ký” viết về quá trình tu luyện của bốn nhân vật, nhưng cũng là phản ánh con đường đầy khổ nạn của một người tu luyện.

Bốn khổ thơ chỉ là cảm ngộ của tác giả, không thể thể hiện sự thay đổi nội tâm trong quá trình tu luyện của thầy trò Đường Tăng như tác phẩm gốc. Tuy nhiên, bài thơ đã tóm gọn một phần những đặc điểm nổi bật trong quá trình tu luyện của từng nhân vật, khắc họa bức tranh toàn cảnh về con đường tu luyện của họ.

Nguyệt Đan (t/h)

Bài viết liên quan

vuon-tho-chanh-kien-tieng-long-kinh-su-ton

Tiếng lòng kính Sư tôn

Kính Sư tâm thanh Đại Pháp hồng truyền tại nhân gian, Phổ độ tế thế Pháp Luân toàn. Tôn Sư trọng Đạo nhập tu luyện, Hằng tâm tu thành Phật Đạo Tiên. Trân tích đa thế kết phật duyên, Tuyển trạch tương lai tân vũ toàn. Pháp chính càn khôn độ chúng sinh, Sư ân…
Bai-tho-ghi-khac-Hong-an

Chùm thơ về Đại Pháp của tác giả Tố Trinh

Nhờ nhận thức được những nội hàm rộng lớn, cao thâm trong cuốn sách “Chuyển Pháp Luân” cũng như những cuốn Kinh sách khác của Sư phụ Lý Hồng Chí trong pháp môn tu luyện Pháp Luân Công (còn có tên là Pháp Luân Đại Pháp) kết hợp với việc thường xuyên thực hành nguyên…
Tranh-son-dau-The-uoc

Bài thơ “Đánh thức những người xung quanh bạn”

Bài thơ do một đệ tử Đại Pháp phương Tây sáng tác. Nhan đề bài thơ là lời các đệ tử Đại Pháp nơi thế gian nhắc nhở nhau, rằng hãy “đánh thức những người xung quanh bạn”. Lời nhắc nhở này xuất phát từ một sự kiện lịch sử trọng đại được giảng trong…