
Bài viết này được Open Access Journals tại Digital Commons – Đại học Nam Florida cung cấp miễn phí và cấp quyền truy cập. Bài viết đã được biên tập viên ủy quyền của Digital Commons – Đại học Nam Florida chấp thuận để đưa vào Tạp chí quốc tế “Nghiên cứu và Phòng ngừa Diệt chủng”.
Tóm tắt
Bài viết này phân tích các đặc điểm của một cuộc diệt chủng lạnh trong chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công. Pháp Luân Công là một môn tu luyện tinh thần bị Chính quyền Trung Quốc đàn áp từ năm 1999.
So với các trường hợp diệt chủng đã được ghi nhận, cuộc diệt chủng nhắm vào Pháp Luân Công có một điểm khác biệt rõ rệt: nó hầu như bị phớt lờ. Bài viết tìm cách làm sáng tỏ bản chất đa chiều của cuộc diệt chủng bị che giấu này từ góc nhìn liên ngành, bao gồm công tác xã hội, y học và luật pháp. Đặc biệt, bài viết chứng minh rằng chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công có thể được nhận diện là một cuộc diệt chủng lạnh, vì nó:
- Có sự hủy diệt đa chiều: sự tàn phá các học viên Pháp Luân Công không chỉ về thể chất mà còn về tâm lý, xã hội và tinh thần;
- Tinh tế về mặt hiển thị;
- Được bình thường hóa trong xã hội nơi nó diễn ra, sự đàn áp này trở thành một phần của đời sống thường nhật.
Chính sự kết hợp giữa các yếu tố vô hình và phi vật lý này khiến cuộc Diệt chủng lạnh đối với Pháp Luân Công trở nên nguy hiểm, ngấm ngầm và chết người. Đồng thời, cũng chính sự tương tác giữa những yếu tố này đã khiến cho nạn Diệt chủng này không được trình bày đầy đủ trong các nghiên cứu về nạn Diệt chủng ngày nay.
Khái quát về nạn Diệt chủng
Trường phái nghiên cứu diệt chủng cổ điển có nguồn gốc từ Raphael Lemkin tập trung vào việc xóa sổ một nhóm thông qua việc giết hại hàng loạt các thành viên của nhóm trong thời gian ngắn. Quan niệm này không nắm bắt được thực tế của các cuộc diệt chủng đã xuất hiện trong những thập kỷ gần đây.
Các nghiên cứu diệt chủng gần đây đã bắt đầu bao gồm nhiều hành vi diệt chủng hơn là giết người hàng loạt và thừa nhận các động lực và ý nghĩa mới trong các hành vi đó. Nhận ra hạn chế của trường phái cổ điển, ông Alexander Hinton mời gọi đánh giá lại khái niệm diệt chủng để làm sáng tỏ các sự kiện vô hình, bị bỏ qua hoặc bị lãng quên. Trong các nghiên cứu về diệt chủng quan trọng của mình, ông Hinton sử dụng một định nghĩa có nội hàm rộng hơn về diệt chủng, “trong khi thừa nhận rằng mọi định nghĩa đều có điểm yếu, chúng ta có thể chỉ cần định nghĩa diệt chủng là nỗ lực ít nhiều có sự phối hợp để tiêu diệt một nhóm người bị phi nhân tính và bị loại trừ vì chính con người của họ.” Ông nhấn mạnh rằng định nghĩa nên bao gồm “sự hủy diệt bất kỳ nhóm nào theo định nghĩa của những kẻ chủ mưu trong nạn diệt chủng.” Trọng tâm của Hinton đó là sự hủy diệt của nhóm đó như là một nhóm. Giết người hàng loạt tất cả các thành viên của nhóm là một cách, nhưng không phải là cách duy nhất để xóa sổ nhóm, xóa bỏ những đặc điểm chung gắn kết nhóm. Khái niệm về cường độ ngắn hạn được thay thế bằng khái niệm về một nỗ lực có sự phối hợp, có thể kéo dài lâu hơn nhiều.
Trong nghiên cứu chi tiết mới đây, Kjell Anderson và Sheri Rosenberg đưa ra khái niệm “diệt chủng lạnh”.
Họ mô tả diệt chủng lạnh là diệt chủng chuyển động chậm hoặc diệt chủng bằng cách tiêu diệt. Rosenberg giải thích các cuộc diệt chủng như vậy là “một quá trình hủy diệt chậm phản ánh hiện tượng diễn ra của vụ giết người hàng loạt đối với một nhóm được bảo vệ thay vì gây ra cái chết dữ dội ngay lập tức”. Diệt chủng lạnh có thể diễn ra thông qua các hình thức bạo lực có cấu trúc tinh vi và thông qua các biện pháp phá hủy nhóm dần dần. Ví dụ như làm suy yếu khả năng tiếp cận các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống hàng ngày như công việc, nhà ở, trường học, thực phẩm và dịch vụ y tế, hoặc biến mất dần dần. Diệt chủng lạnh trái ngược với diệt chủng “nóng”, các hành động phá hoại có cường độ cao tiêu diệt nhóm nạn nhân trong một khoảng thời gian ngắn. Có một thang đối chiếu của các cuộc diệt chủng thay đổi tùy theo nhận thức của thủ phạm về các nhóm nạn nhân, ý định của thủ phạm, tốc độ xảy ra của các cuộc diệt chủng các công cụ được sử dụng và cường độ của động cơ diệt chủng.
Mặc dù câu hỏi về thời điểm bắt đầu hoặc kết thúc của các cuộc diệt chủng có thể được tranh luận, nhưng một cuộc diệt chủng kéo dài hơn 10 năm là rất hiếm. Trong năm thập kỷ qua, thời gian điển hình của các cuộc diệt chủng đã xảy ra và thu hút sự chú ý của quốc tế chỉ kéo dài không quá năm năm.
Phụ lục A. Diệt chủng lạnh – Pháp Luân Công ở Trung Quốc
| Quốc gia/ Khu vực | Thời gian xảy ra tội ác diệt chủng | Thời gian kéo dài | Nhóm nạn nhân | Số lượng nạn nhân ước tính | Nguồn |
| Đế chế Ottoman (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ, Syria và Iraq) | 1915-1923 | 8 năm | Người Armenia | 1,5 triệu | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 132 |
| Ukraina (Holodomor: Nạn đói do Liên Xô gây ra ở Ukraina) | 1932-1933 | 1 năm | Người Ukraina | 5 – 7 triệu | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 157 và 166 |
| Đức và Châu Âu (Cuộc diệt chủng Holocaust) | 1939-1945 | 6 năm | Chủ yếu là người Do Thái, nhưng cũng bao gồm người Di-gan (người Roma), người mắc bệnh tâm thần và khuyết tật, cùng những người khác. | 5-6 triệu người Do Thái, 130.000 người Di-gan, 275.000 người khuyết tật | Totten và Parsons, phiên bản thứ 3, trang 129 và 131; và phiên bản thứ 4, trang 191 |
| Bangladesh (do lực lượng Pakistan thực hiện) | 1971 | 9 tháng | người Bengal (bao gồm cả người theo đạo Hindu và chủ yếu là người Hồi giáo), trang 256 | 3 triệu | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 250 |
| Đông Timor (do lực lượng quân sự Indonesia thực hiện) | 1975-1999 | 24 năm | TNgười Timor | Không có số liệu chính xác do thiếu hồ sơ nhân khẩu học, nhưng theo Ben Saul, hơn 300.000 người Đông Timor đã bị giết. | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 287-288; Saul, trangv 477-479 |
| Campuchia – Campuchia Dân chủ | 1975-1979 | 4 năm | Phật tử, Hồi giáo, Việt Nam và Trung Quốc (và bất kỳ ai không phải là người Campuchia) | 1,7 triệu | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 317 |
| Iraq (Chiến dịch Anfal ở Kurdistan Iraq) | Tháng 2 đến tháng 9 năm 1998 | 8 tháng | Thường dân Kurd | 50.000 – 200.000 | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 395, 399 và 401 |
| Rwanda | 1994 | 100 ngày | Tutsi (đây là tên gọi của một nhóm sắc tộc ở khu vực Đông Phi, chủ yếu tại Rwanda và Burundi). | 500.000 – 1.000.000 | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 447 |
| Bosnia – Diệt chủng ở Bosnia Herzegovina | 1992 – 1995 | 3 năm | Người Serbia ở Bosnia và người Croatia ở Bosnia đã cố gắng loại bỏ lẫn nhau và loại bỏ người Hồi giáo. | 10.000 – 20.000 | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 478 |
| Sudan – Darfur | 2003 – hiện nay | Dường như vẫn đang tiếp diễn | Người da đen Châu Phi/Người không phải Ả Rập (Hồi giáo) | 300.000 – 400.000 | Totten và Parsons, phiên bản thứ 4, trang 513 |
| China -Trung Quốc | 1999 – hiện nay | Dường như vẫn đang tiếp diễn | Những công dân Trung Quốc tu luyện Pháp Luân Công | Không có kết luận chắc chắn (ước tính dao động từ 100.000 đến hơn một triệu). |
Bảng trong Phụ lục A ghi lại các cuộc diệt chủng đã biết trong thế kỷ XX và XXI. Trong số chín cuộc diệt chủng được ghi chép đầy đủ diễn ra trong thế kỷ XX, sáu cuộc kéo dài dưới năm năm; bốn cuộc kéo dài dưới một năm. Hầu hết các cuộc diệt chủng này được coi là diệt chủng nóng. Việc thiếu tài liệu về các cuộc diệt chủng lạnh đặt ra một vấn đề mà Hinton đã đặt câu hỏi: tại sao một số cuộc diệt chủng đã được thảo luận rộng rãi trong khi một số lại bị bỏ qua?
Một câu trả lời đó là vì không theo kịp các biểu hiện đang phát triển của nạn diệt chủng. Những hạn chế trong quan niệm cổ điển về nạn diệt chủng được nhận ra trong chiến dịch xoá sổ Pháp Luân Công. Pháp Luân Công là môn tu luyện đã trở thành mục tiêu của một chiến dịch xoá sổ ở Trung Quốc bắt đầu từ năm 1999. So với các cuộc diệt chủng khác được nêu trong Phụ lục A, cuộc diệt chủng Pháp Luân Công được coi là bất thường vì nó hầu như bị bỏ qua. Một tìm kiếm cơ sở dữ liệu học thuật về tài liệu cho các từ khóa “diệt chủng” và “Pháp Luân Công” trong tiêu đề, chỉ có một bài viết đầu tiên tập trung trực tiếp vào chủ đề này.
Kết quả của nó không có kết luận.
Bài viết này tìm cách khám phá chiến dịch diệt chủng Pháp Luân Công theo góc nhìn của một cuộc diệt chủng lạnh. Từ góc nhìn liên ngành bao gồm công tác xã hội, y học và luật pháp, chúng tôi làm sáng tỏ bản chất đa diện của cuộc diệt chủng được che giấu này. Bài viết được chia thành hai phân đoạn. Phân đoạn đầu tiên là kinh nghiệm. Phân đoạn này cố gắng giải thích Pháp Luân Công là gì, tóm tắt mười một năm điều tra về nạn cưỡng bức thu hoạch nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc và cung cấp tổng quan về các khía cạnh khác của chiến dịch diệt chủng Pháp Luân Công. Phân đoạn thứ hai cung cấp đánh giá về ý định diệt chủng nhắm vào cộng đồng Pháp Luân Công và minh họa bản chất lạnh của cuộc diệt chủng được quan sát thấy trong chiến dịch diệt chủng Pháp Luân Công. Đặc biệt, bài viết phân tích (1) bản chất đa chiều của sự hủy diệt; (2) sự tinh vi và vô hình của nó; và (3) sự bình thường hóa của nó bởi xã hội nơi nó diễn ra.
Pháp Luân Công là gì?
Pháp Luân Công (còn gọi là Pháp Luân Đại Pháp) là một môn tu luyện thân-tâm-thần bắt đầu ở Trung Quốc vào năm 1992 và được thực hành rộng rãi vào những năm 1990. Đây là một môn tu luyện bản thân, đề cao các nguyên lý “Chân-Thiện-Nhẫn”.
Môn tu luyện này bao gồm năm bài công pháp, bao gồm một bài thiền. Các Pháp lý của Pháp Luân Công nhấn mạnh vào việc tu luyện tâm trí, mà không tuân theo các nghi lễ tôn giáo.
Các Pháp lý của Pháp Luân Công bắt nguồn từ những tín ngưỡng văn hóa truyền thống của Trung Quốc dựa trên các triết lý Phật giáo và Đạo giáo. Ngay từ khi mới được giới thiệu đến người dân Trung Quốc, Pháp Luân Công đã được phổ biến ở Trung Quốc như một hình thức khí công – tu luyện và rèn luyện năng lượng sống của cơ thể. Việc tu luyện Pháp Luân Công là miễn phí. Các nguyên tắc đạo đức, Pháp lý tu tâm và tác dụng có lợi cho sức khỏe của nó đã thu hút người dân Trung Quốc.
Tuy nhiên, vào giữa những năm 1990, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ)/Nhà nước phát hiện ra rằng bảy mươi triệu công dân Trung Quốc đang thực hành Pháp Luân Công, đã có sự thay đổi trong thái độ của Đảng/Nhà nước đối với môn tu luyện này. ĐCSTQ bắt đầu quấy rối các học viên Pháp Luân Công, dẫn đến một cuộc đàn áp vào năm 1999.
Trước khi cuộc đàn áp bắt đầu vào năm 1999, các học giả phương Tây hầu như không biết đến Pháp Luân Công. Sau khi cuộc đàn áp bắt đầu, họ mô tả Pháp Luân Công là một phong trào tôn giáo mới.
Benjamin Penny đã nghe nhiều bài giảng của Pháp Luân Công và kết luận rằng Pháp Luân Công là một tôn giáo.
Bài đánh giá của Paul Hedges về cuốn sách Tôn giáo Pháp Luân Công (The Religion of Falun Gong) của Penny chỉ ra rằng sự phân loại này dựa trên sự hiểu biết của phương Tây về tôn giáo. Vì thuật ngữ “tôn giáo” bị ràng buộc về mặt văn hóa, chúng ta cần phải phá vỡ điều này. Hedges nhận xét rằng “quá trình đặt tên [đặt tên cho Pháp Luân Công là một tôn giáo] là chính trị và gây tranh cãi”.
Pháp Luân Công có cấu trúc tổ chức lỏng lẻo – không có hệ thống thành viên, và do đó không có lệ phí thành viên, không có hệ thống phân cấp và không có cấu trúc thể chế. Thuật ngữ Trung Quốc về tôn giáo (zongjiao) thường dùng để chỉ các tín ngưỡng có tính lịch sử được chính thức hóa với giáo sĩ và một tập hợp các thể chế.
Sự khác biệt với các tín ngưỡng có tính lịch sử đã khiến chính những người thực hành Pháp Luân Công tránh xa nhãn hiệu tôn giáo để thực hành Pháp Luân Công.
Nghiên cứu thực địa tại Bắc Mỹ của David Ownby đã khẳng định rằng cộng đồng Pháp Luân Công hoàn toàn không có tính tổ chức.
Một tòa án Canada trong một vụ án phân biệt đối xử với một học viên Pháp Luân Công lớn tuổi đã mô tả Pháp Luân Công là một tôn giáo. Bất chấp sự khác biệt trong nhận thức và định nghĩa về tôn giáo ở phương Đông và phương Tây, cộng đồng Pháp Luân Công vẫn đồng thuận với mô tả về Pháp Luân Công như một tôn giáo. Học giả về diệt chủng Gregory Stanton, vì công trình của mình, đã áp dụng định nghĩa của Bộ luật Hoa Kỳ về nhóm tôn giáo. Bộ luật này định nghĩa một nhóm tôn giáo là “một tập hợp những cá nhân có bản sắc được xác định bởi các tín điều, niềm tin, học thuyết, việc thực hành hoặc nghi lễ tôn giáo chung”.
Trong quá trình trình bày nhiều vụ kiện và phiên tòa xét xử ở các nước phương Tây, cuộc đàn áp Pháp Luân Công được phân loại là đàn áp tôn giáo.
Đặc biệt kể từ khi cuộc đàn áp bắt đầu vào năm 1999, các câu chuyện về Pháp Luân Công đã phân cực, câu chuyện chính thức của Trung Quốc ở một cực và câu chuyện của cộng đồng Pháp Luân Công ở cực kia. Sự phân cực này gây khó khăn cho các học giả và nhà báo đã điều tra về cuộc đàn áp Pháp Luân Công. Vào đầu những năm 2000, hầu hết các học giả phương Tây đã áp dụng cách tiếp cận cân bằng đối với các câu chuyện của nhà nước Trung Quốc và Pháp Luân Công. Việc xác minh cả hai câu chuyện đều là một thách thức.
Sau nhiều năm nghiên cứu thực tế về Pháp Luân Công, David Ownby kết luận rằng bằng chứng do cộng đồng Pháp Luân Công đưa ra về cuộc đàn áp có sức thuyết phục hơn so với bằng chứng do Nhà nước Trung Quốc đưa ra, trong đó có nhiều bằng chứng lặp đi lặp lại nhằm bôi nhọ Pháp Luân Công. David Ownby cho rằng môn tu luyện Pháp Luân Công hoàn toàn dễ hiểu và bác bỏ cách chính quyền Trung Quốc mô tả Pháp Luân Công là một tà giáo. David Ownby, Andrew Junker và các học giả khác kết luận rằng Pháp Luân Công là một nhóm phi chính trị, được tổ chức lỏng lẻo, chỉ bị coi là chính trị hoặc bị chính trị hóa sau khi cuộc đàn áp bắt đầu. Nhóm này chỉ tham gia vào những gì có vẻ là sự phản kháng chính trị sau khi chính quyền Trung Quốc bắt đầu bôi nhọ, tẩy chay, phi nhân tính hóa và tra tấn các học viên.
Chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công ở Trung Quốc
Nguồn gốc của Chiến dịch xóa sổ
Mọi hoạt động công dân, bao gồm tôn giáo và khí công, đều được quản lý chặt chẽ tại Trung Quốc. Pháp Luân Công được chính quyền Trung Quốc hỗ trợ trong những năm đầu tiên, cho đến khi phát triển theo cấp số nhân vào giữa những năm 90. Pháp Luân Công ban đầu được phép đăng ký với Hội nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc (Chinese Qigong Science Research Society, viết tắt là CQSRS), một cơ quan nhà nước nơi các nhóm khí công được cấp phép đăng ký. Các ấn phẩm phỉ báng tấn công Pháp Luân Công và quấy rối các nhóm học viên Pháp Luân Công đã dẫn đến việc Pháp Luân Công rút khỏi CQSRS vào năm 1996 dưới áp lực. Sau khi rút lui, tình trạng phỉ báng và quấy rối gia tăng.
Sự kiện châm ngòi cho chiến dịch toàn quốc nhằm xóa bỏ Pháp Luân Công là “Sự kiện Trung Nam Hải” vào tháng 4 năm 1999. Để đáp lại việc bắt giữ 45 học viên ở Thiên Tân, những người đã phản đối một ấn phẩm phỉ bang Pháp Luân Công được xuất bản tại địa phương, khoảng mười nghìn học viên Pháp Luân Công đã tập trung một cách ôn hòa tại văn phòng thỉnh nguyện của Chính phủ gần Trung Nam Hải, khu phức hợp của Chính phủ tại Bắc Kinh. Không có bằng chứng nào cho thấy cuộc tụ họp được lên kế hoạch tập trung. Cuộc tụ họp này là kết quả của các sáng kiến độc lập hợp lưu của các học viên Pháp Luân Công: cá nhân đã kêu gọi các học viên khác. Cuộc tụ họp này yêu cầu được tự do tu luyện Pháp Luân Công và trả tự do cho các học viên Pháp Luân Công bị giam giữ. Giang Trạch Dân, khi đó là Chủ tịch nước Trung Quốc và là người đứng đầu ĐCSTQ, đã coi sự việc này là một thách thức về mặt ý thức hệ đối với Đảng. Sau đó, Giang Trạch Dân đã có bài phát biểu trước Bộ Chính trị kêu gọi một chiến dịch đàn áp rộng rãi mang tên Đấu tranh (斗争; “để thanh trừng hoặc đàn áp tàn bạo”) đối với Pháp Luân Công. Vào tháng 7 năm 1999, Giang đã ban hành lệnh chính thức nhằm xóa sổ Pháp Luân Công. Một học thuyết trong Đảng Cộng sản đã được chuyển thành chính sách nhà nước mà không có bất kỳ thủ tục lập pháp chính thức nào.
Để thực hiện chiến dịch xóa sổ này, Giang Trạch Dân đã giao cho các cán bộ Đảng là Lý Lan Thanh và La Cán thành lập “Nhóm lãnh đạo xử lý vấn đề Pháp Luân Công”.
Nhóm này đã xây dựng các chiến lược và phương pháp để diệt trừ Pháp Luân Công. Nhóm lãnh đạo cuối cùng đã phát triển thành một cấu trúc do Đảng chỉ đạo gọi là “Phòng 610” (được thành lập vào ngày 10 tháng 6 năm 1999). Phòng 610 là đơn vị chính chịu trách nhiệm tổ chức chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công. Phòng 610 hoạt động ngoài vòng pháp luật; không phải là cơ quan của Nhà nước Trung Quốc mà là của ĐCSTQ. Phòng 610 chỉ đạo tất cả các cấp của các tổ chức Nhà nước bao gồm tư pháp, công chức, doanh nghiệp và giáo dục. Văn phòng có quyền lực và thẩm quyền bao trùm đối với tất cả các tổ chức Đảng khác và tất cả các cơ quan Nhà nước. Tất cả các cơ quan Nhà nước và tất cả các cơ quan Đảng khác phải tuân thủ các chỉ thị và mệnh lệnh của Phòng 610.
Chiến dịch này, ban đầu, là thực hiện cải đạo những người theo Pháp Luân Công bằng mọi cách, kể cả tra tấn. Mục tiêu là hoàn thành chiến dịch trong vòng ba tháng. Tuy nhiên, mục tiêu đã không đạt được. Các học viên Pháp Luân Công đã thể hiện sự kiên cường bất ngờ; họ liên tục biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn và các cơ quan chính quyền địa phương để phục hồi Pháp Luân Công. Do đó, ĐCSQT quyết định tăng cường cường độ của chiến dịch. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1999, Lý Lan Thanh, dưới sự chỉ đạo của Giang Trạch Dân, đã tuyên bố với 3.000 đảng viên tại Đại lễ đường Bắc Kinh về một chiến dịch mới và tàn bạo hơn nhằm tiêu diệt Pháp Luân Công. Một chiến dịch “tấn công mạnh mé” mới nhằm tiêu diệt Pháp Luân Công đã được phát động dưới sự bảo trợ của Phòng 610.
Tăng cường Chiến dịch Xóa sổ
Trong chiến dịch xóa sổ tăng cường này, tra tấn và tử vong do tra tấn đã trở thành chuyện thường tình. Các học viên Pháp Luân Công đã phải chịu nhiều phương pháp tra tấn khác nhau, bao gồm tẩy não, lao động cưỡng bức, thiếu ngủ, bạo lực tình dục, thử nghiệm y khoa tâm thần và các phương pháp khác, và cưỡng bức thu hoạch nội tạng. Đã có những cái chết do tra tấn sau khi bị đánh đập, ép ăn, dùng dùi cui điện, ngạt thở và các phương pháp khác. Minghui.org, một cổng thông tin trực tuyến của các học viên Pháp Luân Công, đã xác minh dữ liệu của hơn 4.000 trường hợp học viên Pháp Luân Công bị tra tấn đến chết.
Theo ước tính dựa trên khảo sát của Ethan Gutmann (một nhà văn, nhà nghiên cứu, tác giả người Mỹ và là nghiên cứu viên cao cấp về Nghiên cứu Trung Quốc tại Tổ chức Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản, người có công trình nghiên cứu về giám sát và thu hoạch nội tạng ở Trung Quốc), từ năm 2000 đến năm 2008, tại bất kỳ thời điểm nào, trung bình 450.000 đến một triệu học viên Pháp Luân Công đã bị giam giữ trong các trại lao động cưỡng bức (còn được gọi là cải tạo thông qua lao động). Năm 2006, Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về tra tấn, Manfred Nowak, đã báo cáo rằng trong 66% của tất cả các vụ tra tấn bị cáo buộc tại các trại giam của Trung Quốc nạn nhân là các học viên Pháp Luân Công, tiếp theo là người Duy Ngô Nhĩ với 11%. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng họ đã đóng cửa các trại lao động cưỡng bức vào năm 2014. Tuy nhiên, theo trang web Minghui.org, các học viên Pháp Luân Công đã từng ở trong các trại như vậy đã không được thả. Thay vào đó, họ đã được chuyển đến những nơi chính thức được gọi là Trung tâm giáo dục pháp lý và thường được gọi là Trung tâm tẩy não. Tổ chức Ân xá Quốc tế đã báo cáo rằng, kể từ khi bãi bỏ, hệ thống lao động cưỡng bức đã được thay thế bằng các hình thức giam giữ tùy tiện và trừng phạt khác.
Như Noakes và Ford đã lưu ý, vào năm 2002, ĐCSTQ đã tuyên bố chiến thắng Pháp Luân Công. Các tài liệu tham khảo về việc thực hành đã trở nên im lặng trên cả phương tiện truyền thông quốc tế và trong nước. Sự im lặng của phương tiện truyền thông này khiến nhiều người tin rằng chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công là một sự đã rồi và rằng chiến dịch chống lại Pháp Luân Công đã kết thúc. Tuy nhiên, một nghiên cứu gần đây theo dõi tình hình chiến dịch chống Pháp Luân Công cho thấy điều ngược lại. Mặc dù có ít báo cáo trên phương tiện truyền thông, chiến dịch vẫn rất sôi động. Chế độ vẫn tiếp tục đầu tư nguồn lực vào việc chống lại Pháp Luân Công và phát động các chiến dịch thường xuyên, được phối hợp trên toàn quốc. Ví dụ, trong những năm gần đây, Chế độ Cộng sản đã phát động một chiến dịch chuyển hóa trên toàn quốc có tên gọi là “Cuộc chiến cuối cùng về giáo dục và chuyển hóa 2013-2015” Chiến dịch này yêu cầu chính quyền phải vào các làng, hộ gia đình, trường học, doanh nghiệp và chi bộ Đảng tìm kiếm các học viên Pháp Luân Công để chuyển hóa. Mức độ hoạt động và nỗ lực để xóa sổ Pháp Luân Công cho thấy rằng chiến dịch này vẫn là ưu tiên hàng đầu.
Kết luận này được xác nhận bởi các nguồn tin từ Trung Quốc. Bằng cách đối chiếu các báo cáo riêng lẻ về tác hại, việc bắt giữ và giam giữ các học viên Pháp Luân Công, số liệu thống kê của Minh Huệ Net (Minghui) cho thấy rằng chiến dịch xóa sổ vẫn duy trì cường độ. Theo Minh Huệ Net, có 10.869 trường hợp bị bắt giữ, quấy rối và giam giữ các học viên Pháp Luân Công tại Trung Quốc trong nửa đầu năm 2017. Trong cùng kỳ, hơn 1.807.396 Nhân dân tệ (khoảng 273.000 đô la Mỹ) tiền mặt, cũng như điện thoại di động, máy tính và các nhu yếu phẩm hàng ngày khác đã bị tịch thu từ các học viên Pháp Luân Công trong các cuộc đột kích vào nhà của họ. Vào năm 2001, khi cường độ của chiến dịch xóa sổ lên đến đỉnh điểm, tổng số vụ bắt giữ, quấy rối và giam giữ được báo cáo đối với Pháp Luân Công chỉ là 9.105.
Thu hoạch nội tạng cưỡng bức
Một khía cạnh quan trọng của chiến dịch xóa bỏ Pháp Luân Công là thu hoạch nội tạng cưỡng bức – thu hoạch nội tạng, bao gồm cả các nội tạng thiết yếu, mà không có sự đồng ý, dẫn đến tử vong. Vào tháng 6 năm 2016, David Kilgour, Ethan Gutmann và David Matas đã công bố bản cập nhật chi tiết về công trình trước đây của họ về các hoạt động cấy ghép nội tạng tại Trung Quốc. Bản cập nhật đã xem xét dữ liệu từ 164 bệnh viện được Bộ Y tế phê duyệt để tiến hành cấy ghép nội tạng vào năm 2007. Dựa trên hơn 2000 nguồn từ các trang web của các bệnh viện Trung Quốc, các bài báo học thuật được công bố tại Trung Quốc và các báo cáo của phương tiện truyền thông Trung Quốc, bản cập nhật này là sự tiếp nối của mười một năm điều tra về việc thu hoạch nội tạng cưỡng bức tại Trung Quốc. Bản cập nhật khẳng định rằng việc thu hoạch nội tạng cưỡng bức vẫn tiếp diễn ở Trung Quốc trên quy mô công nghiệp, bất chấp các thông báo của các quan chức Trung Quốc rằng Trung Quốc đã ngừng sử dụng tù nhân để cấy ghép nội tạng.
Bản cập nhật đưa ra những phát hiện quan trọng sau:
- Các bệnh viện ghép tạng Trung Quốc đang cung cấp nội tạng ghép phù hợp trong vòng một tháng kể từ khi bệnh nhân yêu cầu. Các nội tạng được lấy từ những người hiến tặng còn sống, nghĩa là các nội tạng được thu hoạch khi người hiến tặng vẫn còn sống.
- Nội tạng có sẵn theo yêu cầu và được bán cho cả bệnh nhân trong nước và khách du lịch ghép tạng trên toàn thế giới.
- Cơ sở hạ tầng ghép tạng đã phát triển nhanh chóng kể từ năm 2000, khi bắt đầu xảy ra tình trạng thu hoạch nội tạng cưỡng bức ở Trung Quốc với các nạn nhân Pháp Luân Công. Nhiều bệnh viện đã xây dựng các trung tâm ghép tạng mới và các khoa ghép tạng mới, cũng như lắp đặt giường bệnh mới trong các tòa nhà cũ. Ngoài ra, nhiều bệnh viện Trung Quốc đã có sự tăng trưởng đáng kể về doanh thu, trong đó các khoa ghép tạng là động lực chính thúc đẩy lợi nhuận.
- Một phép tính dựa trên số lượng giường bệnh, tỷ lệ sử dụng giường bệnh, số lượng nhân viên, kết hợp với quy mô tài trợ, giải thưởng và cơ sở hạ tầng mới tại các cơ sở ghép tạng ở Trung Quốc cho thấy khối lượng và quy mô thực tế của các ca ghép tạng ở Trung Quốc vượt xa tuyên bố chính thức là 10.000 ca ghép tạng mỗi năm.
- Bộ máy Nhà nước/ĐCSTQ chỉ đạo việc thu hoạch nội tạng cưỡng bức.
Nó liên quan đến các tổ chức y tế, quân đội, tư pháp, thực thi pháp luật, nhà tù, và hệ thống hành chính dân sự.
Trong nhiều năm, lập trường chính thức của Trung Quốc là các cơ quan nội tạng để cấy ghép được lấy từ những tội phạm bị hành quyết hoặc những người hiến tặng tự nguyện ở Trung Quốc. Cựu Bộ trưởng Y tế Hoàng Khiết Phu khẳng định rằng hơn 90% các cơ quan nội tạng được cấy ghép có nguồn gốc từ những tội phạm tử hình. Con số này gây hiểu lầm vì Trung Quốc chưa bao giờ chính thức thừa nhận việc lấy nội tạng từ các tù nhân lương tâm.
Do đó, các tù nhân lương tâm bị loại trừ một cách có hệ thống khỏi số liệu thống kê chính thức về nguồn nội tạng. Các bác sĩ y khoa coi việc lấy nội tạng từ những tử tù là không thể chấp nhận về mặt đạo đức. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận về mặt đạo đức xung quanh việc này lại bỏ qua một vấn đề thực tế quan trọng – liệu những nội tạng này có được lấy từ nơi khác, từ các tù nhân lương tâm không?
Kể từ năm 2000, đã có một xu hướng tăng mạnh trong các hoạt động ghép tạng ở Trung Quốc.
Đã có báo cáo chính thức về sự gia tăng khối lượng ghép tạng hàng năm từ khoảng 4.000 vào năm 1999 lên hơn 13.000 vào năm 2004 – tăng hơn 230% trong 5 năm. Số lượng trung tâm ghép tạng ở Trung Quốc đã tăng từ khoảng 150 lên hơn 1.000, trong khi thời gian chờ đợi để ghép tạng giảm đáng kể xuống còn một đến bốn tuần. Sự gia tăng mạnh như vậy trong vòng 5 năm chưa được quan sát thấy ở các quốc gia khác. Theo Đài quan sát toàn cầu về hiến tặng và ghép tạng (GODT) theo dõi số lượng hiến tặng và ghép tạng trên toàn cầu, mức tăng ghép tạng hàng năm trên toàn thế giới tương đương khoảng 10-15% trong một khoảng thời gian 5 năm tương tự.
Trong khi khối lượng cấy ghép nội tạng tăng theo cấp số nhân ở Trung Quốc, khối lượng tử hình bị hành quyết lại giảm. Tỷ lệ tử hình giảm thậm chí còn nhiều hơn sau năm 2007 khi Trung Quốc yêu cầu tất cả các bản án tử hình phải được Tòa án Nhân dân Tối cao chấp thuận. Khối lượng cấy ghép nội tạng ở Trung Quốc không thể được giải thích đầy đủ bởi những tên tội phạm tử tù. Phải có một nguồn nội tạng khác để giải thích cho sự gia tăng bất thường về khối lượng cấy ghép nội tạng ở Trung Quốc. Luật hình sự Trung Quốc yêu cầu tử tù bị kết án phải bị hành quyết trong vòng bảy ngày sau khi tuyên án.
Các bệnh viện Trung Quốc chỉ có thể cung cấp nội tạng phù hợp cho bệnh nhân trong thời gian ngắn nếu có một nhóm lớn người hiến tặng còn sống, có thể thu hoạch theo yêu cầu. Không thể duy trì một nhóm như vậy nếu mỗi người hiến tặng còn sống phải bị hành quyết trong vòng bảy ngày. Ngoài ra, nội tạng từ những tử tù thường không phù hợp để cấy ghép vì tình trạng bệnh lý và bệnh truyền nhiễm phổ biến trong số họ.
Năm 2014, Trung Quốc tuyên bố sẽ ngừng lấy nội tạng để cấy ghép từ tù nhân bị hành quyết và thay vào đó sẽ dựa vào nguồn hiến tặng tự nguyện. Thông báo này chưa được đưa vào trong Luật; đồng thời, Luật năm 1984 cho phép lấy nội tạng từ tù nhân bị hành quyết mà không cần sự đồng ý của tù nhân hoặc gia đình họ vẫn chưa bị thu hồi. Các nghiên cứu học thuật đã phát hiện ra rằng chương trình hiến tặng nội tạng gần đây ở Trung Quốc đã tạo ra tỷ lệ hiến tặng nội tạng từ tử thi là một trong những tỷ lệ thấp nhất thế giới.
Vào tháng 12 năm 2017, hãng thông tấn Tân Hoa Xã tuyên bố rằng khối lượng hiến tặng nội tạng tự nguyện vào năm 2016 đã tăng 50% so với năm 2015, với hơn 330.000 người hiến tặng nội tạng đã đăng ký và hơn 38.000 lần hiến tặng các nội tạng chính. Tính toàn vẹn của những con số này đang bị nghi ngờ. Chỉ trong một ngày có đúng 25.000 người hiến tặng đã đăng ký được thêm vào sổ đăng ký hiến tặng nội tạng của Trung Quốc.
Sự gia tăng lớn đột ngột này ở một quốc gia vốn có truyền thống miễn cưỡng hiến tặng nội tạng là điều không thể tin được. Việc tăng số lượng hiến tặng lên một con số lớn đơn giản cho thấy sự thao túng dữ liệu. Ngay cả khi tuyên bố này là đúng, thì nó cũng không thể giải thích được khối lượng thực tế của các ca ghép tạng ở Trung Quốc. Các con số về khối lượng ghép tạng chính thức của Chính phủ Trung Quốc dễ dàng bị vượt qua bởi khối lượng ghép tạng do một số bệnh viện lớn ở Trung Quốc thực hiện. Hơn nữa, nội tạng của những người sắp chết trong bệnh viện sẽ chỉ dành cho những người trong danh sách chờ ghép tạng. Đối với những người đặt lịch ghép tạng trước, nguồn tạng phải được xác định trước và đối với các tạng quan trọng, phải đặt lịch trước để giết người.
Kết luận của nghiên cứu và điều tra được tiến hành từ năm 2006 là nội tạng để cấy ghép từ những người đã được lên lịch giết trước chủ yếu có nguồn gốc từ các học viên Pháp Luân Công, với một số ít có nguồn gốc từ các tù nhân lương tâm khác – người Tây Tạng, người Duy Ngô Nhĩ và người theo đạo Thiên chúa. Kết luận này được khẳng định vào năm 2016, khi nội tạng từ các nguồn không được tiết lộ chính thức tiếp tục tràn ngập thị trường cấy ghép của Trung Quốc, và các báo cáo về các học viên Pháp Luân Công và các tù nhân lương tâm khác bị buộc phải xét nghiệm máu một cách có hệ thống vẫn tiếp diễn. Số lượng lớn các tù nhân lương tâm Pháp Luân Công bị giam giữ cung cấp một lời giải thích hợp lý và sẵn sàng về nguồn gốc của khối lượng lớn nội tạng bị thu hoạch. Các học viên Pháp Luân Công và các tù nhân lương tâm khác đã phải chịu các cuộc kiểm tra y tế và xét nghiệm máu tốn kém một cách có hệ thống trong khi những người bị giam giữ hình sự, ngoại trừ những người bị kết án tử hình, không được tham gia các thủ tục như vậy. Các học viên Pháp Luân Công phải chịu lao động cưỡng bức, tra tấn và tử vong do thương tích và thiếu điều trị y tế. Những cuộc kiểm tra y tế tốn kém này không thể được thực hiện vì lợi ích sức khỏe của các học viên Pháp Luân Công. Thay vào đó, các cuộc kiểm tra y tế là cần thiết để đánh giá sức khỏe nội tạng của họ cho mục đích cấy ghép, để sàng lọc và ghép nối.
Kể từ khi chiến dịch xóa bỏ Pháp Luân Công ra đời, Chính phủ Trung Quốc đã đưa việc phát triển cơ sở hạ tầng ghép tạng của Trung Quốc trở thành một yếu tố quan trọng trong “Kế hoạch năm năm” của mình. Quân đội và Chính quyền trung ương và địa phương đã đầu tư mạnh vào các tổ chức y tế trong nước để tiến hành nghiên cứu cơ bản và phát triển về ghép tạng và thúc đẩy công nghiệp hóa. Rõ ràng là việc cưỡng bức thu hoạch nội tạng của các học viên Pháp Luân Công ở Trung Quốc không chỉ được chính quyền Trung Quốc dung túng; mà còn được Nhà nước tổ chức và điều hành.
Các phát hiện về việc cưỡng bức thu hoạch nội tạng do Nhà nước tổ chức ở Trung Quốc một phần dựa trên bằng chứng tình tiết. Bằng chứng nhân chứng hạn chế là hậu quả của việc thiếu minh bạch trong hệ thống ghép tạng của Trung Quốc. Bản thân sự thiếu minh bạch này là một chỉ báo về hành vi sai trái. Việc che giấu thông tin trong lĩnh vực này phù hợp với mô hình chung của việc che đậy. Việc che đậy này là một đặc điểm mang tính xác định của cuộc diệt chủng lạnh đối với Pháp Luân Công.
.
Ý định tiêu diệt Pháp Luân Công
Công ước về Phòng ngừa và Trừng phạt Tội diệt chủng yêu cầu thủ phạm phải có ý định cụ thể là tiêu diệt một nhóm thuộc quốc gia, dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo, toàn bộ hoặc một phần. Ý định cụ thể này có thể được thể hiện rõ ràng hoặc ngụ ý. Trong chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công, chế độ Cộng sản Trung Quốc thể hiện cả ý định rõ ràng và ngụ ý là tiêu diệt Pháp Luân Công toàn bộ hoặc một phần.
Ý định rõ ràng
Vào ngày 30 tháng 11 năm 1999, Lý Lan Thanh, theo chỉ đạo của Giang Trạch Dân, đã công bố với 3.000 quan chức ĐCSTQ tại Đại lễ đường Bắc Kinh một chính sách chống lại Pháp Luân Công là “bôi nhọ danh tiếng, vắt kiệt tài chính và hủy hoại thân thể”. Lời kêu gọi rõ ràng này cấu thành ý định rõ ràng là tiêu diệt Pháp Luân Công toàn bộ hoặc một phần. Vào tháng 2 năm 2001, Giang Trạch Dân đã triệu tập một “hội nghị công tác trung ương”, trong đó ông ta kêu gọi các quan chức của Đảng “thống nhất tư tưởng và tăng gấp đôi nỗ lực để tiêu diệt Pháp Luân Công”. Trong “Kế hoạch 5 năm lần thứ mười”, việc tiêu diệt Pháp Luân Công được chỉ định là ưu tiên quốc gia.
Những tuyên bố về ý định tiêu diệt Pháp Luân Công xuất hiện rất nhiều trong các văn bản chính thức được ban hành ở các cấp chính quyền và cấp thấp hơn trong nhiều thập kỷ cho đến nay, đặc biệt là trong những thời điểm mà Chế độ Cộng sản coi là nhạy cảm.
Tổ chức Thế giới Điều tra Cuộc đàn áp Pháp Luân Công (WOIPFG) đã ghi lại cuộc chiến kéo dài mười lăm năm của chế độ này nhằm chuyển hóa Pháp Luân Công từ năm 1999 đến năm 2014. Đặc biệt, tổ chức Phi chính phủ này đã nêu bật các chỉ thị kêu gọi “Cuộc chiến quyết định chuyển hóa giáo dục” (教育转化决战 Jiàoyù zhuǎnhuà juézhàn), được ban hành ở nhiều cấp chính quyền tại nhiều tỉnh như Hồ Bắc, Hồ Nam, Cương Tô, An Huy, Tứ Xuyên, Sơn Đông, Thượng Hải và Quảng Đông. Ông Noakes và ông Ford đã báo cáo các tài liệu tương tự kêu gọi “dọn dẹp toàn diện” và nỗ lực “xử lý” Pháp Luân Công.
Bằng cách tham chiếu chéo các tài liệu như vậy từ các khu vực địa lý khác nhau, các tác giả đã xác định các chỉ thị này là một phần của một số sáng kiến chống Pháp Luân Công được phối hợp trên toàn quốc. Tuy nhiên, các chỉ thị này hiếm khi được công bố rộng rãi ở cấp quốc gia.
Ý định suy luận
Theo luật pháp của các tòa án hình sự quốc tế, ý định tiêu diệt toàn bộ hoặc một phần của một nhóm người có thể được suy ra từ các yếu tố như quy mô và bản chất của các hành động tàn bạo đã gây ra, số lượng thành viên nhóm bị ảnh hưởng, việc sử dụng ngôn ngữ xúc phạm đối với các thành viên của nhóm bị nhắm làm mục tiêu, việc nhắm mục tiêu một cách có hệ thống vào các nạn nhân dựa trên kế hoạch thành viên của họ. Hầu như tất cả các yếu tố này đều được đáp ứng trong chiến dịch xóa bỏ Pháp Luân Công.
Quy mô và mức độ nghiêm trọng của việc tra tấn đối với các học viên Pháp Luân Công theo chỉ đạo của Phòng 610, và các trường hợp tử vong đã được xác minh do tra tấn cho thấy ý định không chỉ gây hại mà còn tiêu diệt Pháp Luân Công. Chiến dịch chống lại Pháp Luân Công được tiến hành bằng cách sử dụng bộ máy trạng thái thông qua một chuỗi chỉ huy kết nối những thủ phạm chính với các cấp cao nhất của lãnh đạo Đảng. Với tư cách là Chủ tịch và người đứng đầu ĐCSTQ vào năm 1999, Giang Trạch Dân đã chỉ đạo, kiểm soát, giám sát, cho phép và dung túng cho chiến dịch diệt trừ Pháp Luân Công. Các viên chức đảng cấp tỉnh và cấp huyện, dưới sự chỉ đạo thống nhất của Phòng 610, giám sát việc thực thi pháp luật và quản lý nhà tù, hoạt động của các cơ sở giam giữ và trại lao động, và hành động của các viên chức cảnh sát và nhà tù.
Ý định tiêu diệt Pháp Luân Công cũng có thể được suy ra từ sự tham gia của nhà nước vào ngành công nghiệp thu hoạch nội tạng cưỡng bức. Thu hoạch nội tạng cưỡng bức ở Trung Quốc không phải là một doanh nghiệp tư nhân. Chiến dịch này do Đảng Cộng sản/Nhà nước Trung Quốc dẫn đầu. Chiến dịch này do Bộ Y tế thực hiện, và sau đó là cơ quan kế nhiệm, Ủy ban Y tế và Kế hoạch hóa Gia đình Quốc gia. Các cơ quan cấy ghép được mua thông qua một chuỗi chỉ huy liên quan đến cả các tổ chức quân sự và dân sự, do Phòng 610 tạo điều kiện thuận lợi. Trong chuỗi chỉ huy này, Tổng cục Hậu cần Quân đội Giải phóng Nhân dân hoạt động như đơn vị hoạt động cốt lõi chịu trách nhiệm phân bổ, phân phối, vận chuyển, giao hàng, bảo mật và hạch toán các cơ quan cấy ghép. Với sự hợp tác của các đơn vị quân đội khác, cảnh sát vũ trang, Ủy ban Chính trị và Pháp luật của Đảng, hệ thống y tế và các nhà môi giới nội tạng, các trung tâm cấy ghép của các bệnh viện quân sự và dân sự được tiếp cận với các nhà tù và trại giam để mua nội tạng. Không ai sống sót sau khi bị cắt bỏ các cơ quan quan trọng của mình—tim, phổi, gan hoặc cả hai quả thận. Việc chế độ Cộng sản Trung Quốc nhắm mục tiêu có chọn lọc vào các học viên Pháp Luân Công để cưỡng bức thu hoạch nội tạng trên quy mô công nghiệp cho thấy ý định giết hại các học viên Pháp Luân Công với số lượng lớn. Đây là ý định hủy diệt Pháp Luân Công toàn bộ hoặc một phần.
Cho phép nạn nhân lựa chọn từ bỏ Pháp Luân Công
Trước khi bị tra tấn hoặc giết hại, những người theo Pháp Luân Công được lựa chọn từ bỏ việc tu luyện Pháp Luân Công. Vì phạm vi của Công ước diệt chủng chỉ giới hạn ở sự hủy diệt về mặt thể xác, có một lập luận cho rằng yếu tố tinh thần của tội diệt chủng không được thỏa mãn. Những kẻ chủ mưu và lập kế hoạch đằng sau chiến dịch xóa sổ này có ý định xóa bỏ đức tin nhiều hơn là hủy diệt về mặt thể xác những người theo Pháp Luân Công.
Chế độ này đã dùng đến các biện pháp ngày càng nghiêm trọng như giết người và tra tấn dã man chỉ sau khi những người theo Pháp Luân Công chống lại những nỗ lực cải đạo của họ. Nếu tất cả những người theo Pháp Luân Công đều tự nguyện từ bỏ Pháp Luân Công, chiến dịch xóa bỏ có thể đã kết thúc mà không có bạo lực hoặc đổ máu. Một số học giả cho rằng việc tiêu diệt một nhóm tôn giáo mà không tiêu diệt về mặt thể xác những người trong nhóm thì không cấu thành tội diệt chủng.
Diễn giải hạn chế này về ý định không phù hợp với nội dung và mục đích của Công ước về diệt chủng. Khi đọc hiểu một cách đơn giản Điều II của Công ước, không có dấu hiệu nào cho thấy ý định hủy diệt phải là ý định hủy diệt về mặt thể chất các thành viên của nhóm mục tiêu.
Diễn giải hạn chế này trái ngược với đối tượng và mục đích của Công ước, đó là bảo vệ sự tồn tại của các nhóm người và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản nhất của nhân loại. Quyền của một người được lựa chọn một tín ngưỡng tôn giáo mà không bị can thiệp và cưỡng bức bằng bạo lực là một nguyên tắc cơ bản của nhân loại. Diễn giải hạn chế này giới hạn phạm vi của quyền tự do tôn giáo và đức tin tâm linh. Diễn giải hạn chế này cũng không nhất quán với các các nội dung đã được chuẩn bị (travaux preparatoires) của Công ước. Việc đưa các nhóm tôn giáo vào danh sách các nhóm được bảo vệ cho thấy ý định bảo vệ tín ngưỡng tôn giáo của Công ước. Một tôn giáo luôn có thể bị từ bỏ. Việc ngăn chặn việc phát hiện ra ý định diệt chủng khi các nạn nhân được quyền từ bỏ chính là phủ nhận sự bảo vệ mà Công ước về diệt chủng muốn trao cho các nhóm tôn giáo.
Diệt chủng lạnh đối với Pháp Luân Công ở Trung Quốc
Mặc dù trường hợp của Pháp Luân Công đáp ứng thành phần của định nghĩa cổ điển về diệt chủng đề cập đến sự hủy diệt về mặt thể chất, định nghĩa này nhấn mạnh quá mức vào khía cạnh thể chất của cuộc diệt chủng và không nắm bắt được chiến dịch chống lại Pháp Luân Công trong tất cả các chiều hướng tinh vi và đa diện của nó. Nghiên cứu gần đây về tội diệt chủng lạnh khuyến khích một cuộc điều tra sâu hơn vào ý nghĩa của nhiều hành vi vi phạm khác nhau được thực hiện đối với Pháp Luân Công.
Trái ngược với một cuộc diệt chủng nóng nhấn mạnh vào việc gây ra cái chết do bạo lực ngay lập tức, một cuộc diệt chủng lạnh nhận ra các hình thức bạo lực có cấu trúc tinh vi hơn, cuối cùng dẫn đến sự tiêu vong của nhóm mục tiêu. Những hành động như chuyển đổi tư tưởng, tuyên truyền và quỷ dữ hóa không tách biệt khỏi cuộc diệt chủng, mà là một phần của cùng một dự án nhằm tiêu diệt Pháp Luân Công, nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn môn tu luyện và những người tu luyện.
Lý thuyết về diệt chủng lạnh vẫn còn mới mẻ. Phạm vi và ý nghĩa chính xác của khái niệm này vẫn còn mở và chưa xác định. Tuy nhiên, chúng ta có thể kết luận từ các tài liệu hiện có về chủ đề này ít nhất hai yếu tố phân biệt một cuộc diệt chủng lạnh. Thứ nhất, một cuộc diệt chủng lạnh có tính đa chiều – với nghĩa là các chiến dịch nhằm mục đích tiêu diệt các nạn nhân theo nhiều cách khác nhau. Thứ hai, người ngoài khó nhận ra hơn. Khả năng hiển thị ít hơn của nó tạo điều kiện cho thời gian kéo dài. Xã hội nơi diễn ra một cuộc diệt chủng lạnh thường bình thường hóa cuộc diệt chủng. Trong các chiến dịch xóa sổ của chế độ Cộng sản Trung Quốc trước đây, những kẻ thực hiện đã nỗ lực rất nhiều để bình thường hóa các hành vi tàn ác của chúng bằng cách truyền bá cho người dân Trung Quốc các triết lý bạo lực chống lại những kẻ thù được chỉ định của Nhà nước hoặc những kẻ phản cách mạng. Những kỹ thuật bình thường hóa này tương tự cũng được quan sát thấy trong cuộc diệt chủng Pháp Luân Công hiện nay.
Trong phân tích sau đây, chúng tôi cho rằng cuộc diệt chủng Pháp Luân Công có thể được xác định là một cuộc diệt chủng lạnh trên cơ sở rằng nó đa chiều, tinh vi và được bình thường hóa. Những yếu tố này không chỉ phân biệt Pháp Luân Công là một cuộc diệt chủng lạnh; chúng còn giải thích tại sao chiến dịch chống Pháp Luân Công lại không được đề cập đầy đủ trong các nghiên cứu về diệt chủng. Trong phần cuối của phân tích, chúng tôi giải quyết những điểm yếu và hạn chế tiềm ẩn trong luận điểm của chúng tôi rằng chiến dịch xóa bỏ Pháp Luân Công cấu thành một cuộc diệt chủng lạnh.
Phá hủy đa chiều
Một cuộc diệt chủng lạnh là một hiện tượng phức tạp. Kẻ thủ ác, ngoài một số hành động phá hủy về mặt thể chất, còn tìm cách xóa sổ nhóm nạn nhân thông qua các biện pháp phi thể chất. Anderson cho rằng, trong các hình thức diệt chủng phi thể chất, việc phá hủy về mặt thể chất đối với các nạn nhân có thể không được cố ý. Thay vào đó, các hành vi hoặc chính sách áp bức được tính toán để gây ra sự phá hủy cuối cùng của nhóm bằng cách phá hoại nền tảng tồn tại của nhóm. Đặc biệt, Anderson xác định sự phá hủy bằng các cuộc tấn công vào ba chiều hướng của nhóm – tính bền vững về văn hóa, kinh tế và chính trị. Anderson đã sử dụng Tây Papua (là một tỉnh của Indonesia), chứ không phải Trung Quốc, làm một nghiên cứu điển hình. Tuy nhiên, ba chiều hướng tấn công cụ thể của ông giống với ba chiều hướng tấn công của ĐCSTQ đối với Pháp Luân Công – bôi nhọ thanh danh, vắt kiệt tài chính và hủy hoại thân thể.
Theo chính sách của họ, chế độ cộng sản Trung Quốc không chỉ hủy hoại thể xác các học viên Pháp Luân Công thông qua tra tấn và cưỡng bức thu hoạch nội tạng. Các chính sách và hệ thống đã được thiết lập để cố gắng, thông qua các trung tâm tẩy não và cải tạo, tách các học viên Pháp Luân Công khỏi đức tin tâm linh của họ, chấp nhận hệ tư tưởng của Đảng và từ chối cộng đồng Pháp Luân Công. Các chiến dịch và chính sách này đã làm suy yếu các điều kiện sống của các học viên Pháp Luân Công và cắt đứt họ khỏi bản sắc tâm linh của họ. Các học viên Pháp Luân Công, một khi bị phát hiện tại nơi làm việc, sẽ mất việc làm và thu nhập. Các biện pháp này tiếp tục phá hủy Pháp Luân Công theo cách gia tang từng bước. Chế độ cộng sản Trung Quốc cũng tìm cách hủy hoại danh tiếng của Pháp Luân Công và đời sống xã hội của các học viên ở cả Trung Quốc và nước ngoài. Nhận thức về nỗ lực phá hủy đa chiều của Đảng là rất quan trọng để hiểu được cuộc diệt chủng Pháp Luân Công vì cuộc diệt chủng đó là sự tương tác giữa nhiều biện pháp gia tăng. Nỗ lực gia tăng đa chiều này có thể không rõ ràng đối với một người quan sát bình thường, nhưng lại mang tính hủy diệt và lâu dài.
Mục lục
Cái chết về mặt tinh thần
Đầu tiên trong quá trình phá hủy đa chiều Pháp Luân Công là xóa bỏ đức tin tâm linh bằng cách ép buộc các học viên Pháp Luân Công chuyển hóa tư tưởng. Chuyển hóa tư tưởng cưỡng bức tương tự như đồng hóa cưỡng bức, diệt chủng dân tộc hoặc diệt chủng văn hóa. Trong tất cả các trường hợp này, nhóm nạn nhân bị buộc phải từ bỏ lối sống và bản sắc của mình. Các biện pháp này được thiết kế để đảm bảo sự biến mất cuối cùng của nhóm nạn nhân.
Việc chuyển hóa tư tưởng cưỡng bức có hệ thống đặc biệt quan trọng trong nỗ lực xóa sổ Pháp Luân Công. Kể từ khi chiến dịch xóa bỏ bắt đầu vào tháng 7 năm 1999, các học viên Pháp Luân Công bị giam giữ đã đổi lấy việc được trả tự do bằng việc ký vào bản thú tội và từ bỏ đức tin và việc thực hành Pháp Luân Công của họ. Những người chống lại đã phải chịu tra tấn, tử vong do tra tấn và cưỡng bức thu hoạch nội tạng. Các học viên Pháp Luân Công phải đối mặt với sự lựa chọn tàn khốc giữa linh hồn và thể xác, sự lựa chọn hoặc từ bỏ sự tồn tại tinh thần và danh tính của họ hoặc từ bỏ sức khỏe và cuộc sống của họ – chết về mặt tinh thần hoặc chết về mặt thể xác. Bất kỳ sự lựa chọn nào cũng sẽ trở thành một phần của sự tuyệt chủng dần dần của Pháp Luân Công.
Tẩy não hoặc cải tạo là một hình thức tra tấn tâm lý. Mục đích của việc tẩy não là cưỡng bức chuyển hóa từ một tín ngưỡng tâm linh được chấp nhận tự do sang chấp nhận nội dung do Đảng/Nhà nước áp đặt. Tẩy não diễn ra trong các trại lao động cưỡng bức và các cơ sở giam giữ khác. Các học viên Pháp Luân Công bị đưa đến trại cải tạo và bị ép phải tiếp xúc với nhiều giờ xem phim và tài liệu tuyên truyền chống Pháp Luân Công, phỉ báng và quỷ dữ hóa Pháp Luân Công. Họ bị tấn công bởi những thông điệp này đến mức kiệt sức về thể chất và suy sụp tinh thần, với mục đích và thường là hậu quả là từ bỏ đức tin của họ.
Chế độ Cộng sản Trung Quốc dán nhãn quá trình chuyển hóa cưỡng bức của mình là Chuyển hóa (转化) hay Chuyển đổi. Phòng 610 đã chỉ định 5 tiêu chuẩn mà quá trình chuyển hóa phải đáp ứng.
Những người theo Pháp Luân Công phải:
- Từ bỏ tu luyện;
- Viết một tuyên bố ăn năn;
- Giao nộp tất cả các sách và tài liệu của Pháp Luân Công;
- Viết lời chứng thực chống lại Pháp Luân Công và người sáng lập; và
- Hỗ trợ chuyển hóa các học viên Pháp Luân Công khác.
Các tiêu chuẩn này đã được áp dụng trên toàn quốc. Kết quả mong muốn của chiến dịch chuyển hóa này là xóa bỏ tập tục này trong số những người còn sống và những người đã chết mà không chuyển hóa. Các hạn ngạch chuyển hóa cưỡng bức được cấp cho các chính quyền địa phương được khuyến khích sử dụng bất kỳ biện pháp nào cần thiết để đạt được các mục tiêu này, bao gồm các chiến thuật cưỡng bức như ép ăn, tước ngủ và sốc điện bằng dùi cui điện.
Công tác chuyển hóa đối với những người theo Pháp Luân Công không chỉ được thực hiện bởi các viên chức nhà nước trong các cơ sở giam giữ; nó đã trở thành một hoạt động quốc gia liên quan đến tất cả các thành phần của Đảng/Nhà nước và các tác nhân hợp tác của nó. Điều này thể hiện rõ qua hàng chục văn bản chính thức được lưu hành như một phần của “Kế hoạch công tác chiến đấu tổng thể củng cố và cải tạo 2010-2012”. Các văn bản này kêu gọi chính quyền địa phương, các tổ chức Đảng, doanh nghiệp và cá nhân tham gia vào công tác chuyển hóa những người theo Pháp Luân Công. Ví dụ, một văn bản ngày 6 tháng 4 năm 2010 của Cục Công nghiệp và Công nghệ thông tin thành phố Jiyuan đã kêu gọi Phòng 610 địa phương ký kết “thỏa thuận trách nhiệm” với các doanh nghiệp và thường xuyên kiểm tra công tác “chuyển hóa” của các doanh nghiệp đó. Một văn bản ngày 5 tháng 5 năm 2010 do Chính quyền Nhân dân thị trấn Tianwen ban hành, yêu cầu các tổ chức và các nhóm nhỏ tiến hành “cuộc tấn công giáo dục” vào nhà của những người theo Pháp Luân Công. Một văn bản do Cục Quản lý Cải tạo Lao động tỉnh Giang Tây ban hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2010 đã kêu gọi Cảnh sát Nhân dân “cải thiện kiến thức và các nghiên cứu về xã hội học, y học, tâm lý học và tôn giáo như một phần của công tác ‘chuyển hóa thông qua cải tạo’ của họ.”
Cái chết về mặt xã hội
Claudia Card đã viết: “mất đi sức sống xã hội là mất đi bản sắc, và do đó, mất đi ý nghĩa cho sự tồn tại của một người.” Bà lập luận rằng cái chết xã hội là trọng tâm để hiểu được tội ác diệt chủng. Đảng/Nhà nước Trung Quốc nỗ lực rất nhiều để phá hủy sự tồn tại xã hội của các học viên Pháp Luân Công. Bằng cách tuyên truyền có hệ thống, phi nhân tính hóa và quỷ dữ hóa, các học viên Pháp Luân Công và xã hội trở nên xa cách nhau. Các học viên Pháp Luân Công phải đối mặt với sự từ chối và lên án từ cộng đồng của họ. Họ phải đối mặt với sự căm ghét, cô lập và giám sát trong môi trường sống và làm việc của họ, và bị tẩy chay hoặc khai trừ khỏi gia đình, bạn bè và vòng tròn xã hội của họ. Cái chết xã hội và cái chết tinh thần, không giống như vụ thảm sát về thể xác, diễn ra trong im lặng và không đổ máu, nhưng chúng đạt được hiệu ứng xóa sổ tương tự nhưng nhưng có tác dụng diệt trừ sâu sắc.
Phòng 610 đã tiến hành một chiến dịch bôi nhọ rộng rãi để kích động lòng căm thù Pháp Luân Công. Nỗ lực kích động này đã chứng minh là thực tế khó khăn hơn dự kiến. Do sự thực hành lòng tốt của Pháp Luân Công trong xã hội Trung Quốc trong bảy năm sau khi được giới thiệu, Pháp Luân Công được đánh giá cao ở Trung Quốc; người Trung Quốc nói chung đều biết rằng các học viên Pháp Luân Công là những người tốt. Phòng 610 đã phản ứng bằng cách leo thang. Họ dàn dựng một vụ tự thiêu để bôi nhọ Pháp Luân Công. Năm 2001, chế độ đã tổ chức năm người giả vờ tự thiêu tại Quảng trường Thiên An Môn trước một video chính thức của nhà nước và bắt họ tự nhận là học viên Pháp Luân Công. Video tự thiêu đã được phát trên các phương tiện truyền thông lớn do nhà nước tài trợ trên toàn quốc để làm mất uy tín của Pháp Luân Công và mô tả Pháp Luân Công là nguy hiểm. Một phân tích về video cho thấy những người tự thiêu rõ ràng là diễn viên, không phải là học viên Pháp Luân Công, và vụ việc đã được dàn dựng. Nếu không có tin tức độc lập nào vạch trần sự bịa đặt này, vụ tự thiêu đã khiến dư luận ở Trung Quốc chống lại Pháp Luân Công
Nhiều công dân Trung Quốc đã bị dẫn dắt để ủng hộ Chế độ trong việc giám sát các học viên Pháp Luân Công. Các tổ chức cơ sở do Đảng tài trợ, chẳng hạn như các hiệp hội cư dân, được bổ nhiệm làm đặc vụ của Đảng để gây áp lực lên các học viên Pháp Luân Công tại các cộng đồng địa phương. Các đặc vụ này báo cáo với Cục Công an đến để bắt giữ và giam giữ các học viên Pháp Luân Công.
Các ủy ban khu phố cũng được Phòng 610 huy động để tuần tra thường xuyên và gỡ bỏ các thông điệp về Pháp Luân Công được đăng trong khu phố. Áp lực từ các đặc vụ cơ sở này đã cô lập các học viên Pháp Luân Công khỏi chính cộng đồng của họ. Mục tiêu của sáng kiến này, như được mô tả một cách sống động trong một văn bản do Văn phòng thành phố của ĐCSTQ ban hành, là “biến các học viên Pháp Luân Công thành những con chuột chạy ngang qua đường mà mọi người đều hét lên để đập tan; không để lại cho họ bất kỳ khoảng trống nào”.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, Phòng 610 đã thiết lập một hệ thống hình phạt tập thể để tạo ra sự phân cực hơn nữa giữa các học viên Pháp Luân Công và phần còn lại của xã hội. Theo hệ thống này, các đơn vị làm việc hoặc chủ lao động tư nhân của các học viên Pháp Luân Công sẽ bị phạt nếu học viên Pháp Luân Công bị bắt gặp đang biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn. Các hình phạt tài chính được áp dụng đối với các viên chức địa phương, chẳng hạn như người đứng đầu an ninh làng, nếu các nhóm thanh tra phát hiện ra tài liệu Pháp Luân Công ở khu vực địa lý mà họ chịu trách nhiệm. Hệ thống hình phạt tập thể được bổ sung bằng một hệ thống khuyến khích và khen thưởng cho những người báo cáo về các hoạt động của Pháp Luân Công và các địa điểm in ấn ngầm của các học viên Pháp Luân Công. Hệ thống hình phạt và khen thưởng tập thể này đã biến các đồng nghiệp, bạn bè và người thân tín của các học viên Pháp Luân Công thành kẻ thù của họ. Phá sản tài chính và phá sản kinh tế là một phương pháp khác mà Đảng đã sử dụng để phá hoại các điều kiện sống của các học viên Pháp Luân Công và phá hủy sức sống xã hội của họ. Các học viên Pháp Luân Công bị từ chối một cách có hệ thống việc làm hoặc giáo dục nâng cao. Nhiều người trong số họ bị đẩy đến tình trạng thất nghiệp và lương hưu của họ bị cắt. Khó khăn tài chính của họ còn trầm trọng hơn do chế độ phạt tiền thường xuyên và tịch thu tài sản cá nhân. Kết quả là, nhiều học viên Pháp Luân Công vô gia cư và túng quẫn.
Bản thân sự cô lập xã hội không thể được gọi là diệt chủng lạnh một cách hợp lý. Là một phần của một chiến dịch nhiều mặt, sự cô lập này góp phần vào nạn diệt chủng.
Sự tinh vi và vô hình
Diệt chủng diễn ra chậm là một điểm mù trong các nghiên cứu diệt chủng theo trường phái truyền thống. Sự lan tỏa tác động theo không gian và thời gian khiến cho người quan sát khó có thể nhận thức được đầy đủ mức độ tàn phá của những cuộc diệt chủng này. Không chỉ riêng tốc độ chậm của một cuộc diệt chủng khiến nó trở nên khó nắm bắt. Trên thực tế, điều phân biệt một cuộc diệt chủng lạnh chính là sự tinh vi của nó. Diệt chủng lạnh mang tính tinh vi ở khía cạnh tính khả kiến, bởi vì ngoài việc diễn ra từ từ, nó còn được che đậy và các nạn nhân của nó bị gạt ra ngoài lề xã hội theo cách khiến họ không nhận được sự chú ý của công chúng.
Trong trường hợp của Pháp Luân Công, chúng ta có thể quan sát thấy ba hiện tượng đã dẫn đến tính tinh vi của cuộc diệt chủng này. Thứ nhất là sự chậm rãi. Cuộc diệt chủng bắt đầu vào năm 1999; nó đã kéo dài suốt mười tám năm và vẫn đang tiếp diễn cho đến ngày nay. Như chúng tôi đã đề cập trước đó, những cuộc diệt chủng thu hút được sự chú ý của cộng đồng quốc tế thường chỉ kéo dài không quá năm đến mười năm. Một cuộc diệt chủng kéo dài hơn mười năm là điều hiếm thấy. Do đó, cuộc diệt chủng nhắm vào Pháp Luân Công, bởi vì tính chất chậm rãi của nó, là một trường hợp dị thường trong các cuộc diệt chủng.
Việc che đậy có hệ thống của những kẻ thủ ác càng làm tăng thêm tính vô hình, khiến cho mức độ nhận thức rõ ràng về cuộc diệt chủng trở nên rất thấp. Việc Đảng/Nhà nước Trung Quốc thao túng truyền thông để lan truyền tuyên truyền và thông tin sai lệch đã trở thành một công cụ hiệu quả, không chỉ để kích động thù hận mà còn nhằm che giấu và phủ nhận hành vi diệt chủng đối với Pháp Luân Công. Một khía cạnh quan trọng trong hoạt động che đậy của chế độ này là việc bóp méo và xóa bỏ dữ liệu công khai. Hình thức che đậy này đặc biệt rõ ràng trong dữ liệu liên quan đến cấy ghép nội tạng. Các bệnh viện cấy ghép, phương tiện truyền thông và các trang web chính thức thường xuyên gỡ bỏ thông tin có thể làm lộ hành vi tội ác mổ cướp nội tạng – tức là giết hại người vô tội để lấy nội tạng của họ.
Ví dụ, sau khi báo cáo của Matas-Kilgour được công bố vào năm 2006, cơ sở đăng ký cấy ghép nội tạng đặt tại Hồng Kông – vốn từng mở cửa cho công chúng – đã ngăn chặn quyền truy cập trực tuyến vào số liệu thống kê về số ca ghép tạng. Các con số về số lượng ca cấy ghép đã bị giảm một cách giả tạo xuống mức thấp, không gây báo động, hoàn toàn không tương xứng với quy mô và nhân lực của các trung tâm cấy ghép. Trong khi cơ sở hạ tầng phục vụ cấy ghép nội tạng tại Trung Quốc mở rộng trong suốt mười năm, thì số liệu chính thức được công bố lại không cho thấy bất kỳ sự gia tăng nào, mà luôn giữ ở mức không tưởng – khoảng 10.000 ca mỗi năm trong suốt giai đoạn từ 2006 đến 2016. Việc thao túng dữ liệu trên các trang web tại Trung Quốc đã được phát hiện với sự hỗ trợ của thông tin lưu trữ, như được ghi nhận trong bản cập nhật năm 2016 của các ông Kilgour, Gutmann và Matas.
Một hình thức che đậy khác là Chế độ Cộng sản kiểm duyệt trực tuyến các thuật ngữ tìm kiếm liên quan đến Pháp Luân Công. Một số cuộc điều tra về kiểm duyệt internet đã chỉ ra rằng Pháp Luân Công là chủ đề bị kiểm duyệt nhiều nhất ở Trung Quốc. Vào tháng 6 năm 2009, Chế độ Cộng sản đã phát triển một hệ thống kiểm duyệt/phần mềm gián điệp được gọi là “Green Dam Youth Escort” được cài đặt trên tất cả các máy tính cá nhân của Trung Quốc.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Michigan đã tìm thấy hai danh sách từ khóa bị kiểm duyệt trên hệ thống này, danh sách dài hơn có tên là Falunwords.lib, với 90% trong số 6500 từ liên quan đến Pháp Luân Công.
Những tin tặc có được danh sách từ khóa bị kiểm duyệt đã phát hiện ra rằng Pháp Luân Công là chủ đề bị kiểm duyệt nhiều nhất trên ứng dụng trò chuyện phổ biến của Trung Quốc là QQ và trên các trang web khác của Trung Quốc.
Một cuộc diệt chủng lạnh cũng tinh vi bởi vì tình trạng thiệt thòi của nhóm nạn nhân. Riccardo, Marczak và Diamadis chỉ ra rằng sự hiện diện của thành kiến hoặc phân biệt đối xử với các nạn nhân là một yếu tố quan trọng khiến cho nỗi đau khổ của họ bị bỏ qua. Nguyên nhân và bản chất của thành kiến đối với các nhóm nạn nhân khác nhau sẽ khác nhau, nhưng tác động thì giống nhau – gạt nhóm nạn nhân ra bên lề và che giấu tội diệt chủng của họ khỏi tầm nhìn và sự chú ý của công chúng. Chiến dịch bôi nhọ Pháp Luân Công và thông tin sai lệch chống lại Pháp Luân Công của chế độ cộng sản Trung Quốc đã gieo rắc thành kiến và phân biệt đối xử rộng rãi đối với các học viên Pháp Luân Công và gạt họ ra bên ngoài Trung Quốc. Thông tin sai lệch đã được xuất khẩu sang các phương tiện truyền thông chính thống và phương tiện truyền thông dân tộc Hoa ngữ bên ngoài Trung Quốc.
Phương tiện truyền thông và học viện ở phương Tây cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gạt các học viên Pháp Luân Công ra ngoài lề trong cộng đồng quốc tế. Để đạt được vẻ ngoài trung lập, các bài diễn thuyết chủ đạo của giới học thuật và phương tiện truyền thông về Pháp Luân Công đã lấy các câu chuyện từ cả ĐCSTQ và Pháp Luân Công. Bài diễn thuyết phân cực này đã tạo ra sự nhầm lẫn và khiến công chúng khó có thể đánh giá được thực tế của cuộc diệt chủng và đưa ra lập trường quyết liệt chống lại nó. Việc các phương tiện truyền thông và học viện sao chép lại lời lẽ của ĐCSTQ cũng tạo ra sự nghi ngờ trong cộng đồng quốc tế đối với Pháp Luân Công. Tổng kết lại, công việc của họ là gạt Pháp Luân Công ra ngoài lề, tạo ra sự im lặng và phủ nhận đối với cuộc diệt chủng, và do đó để các học viên Pháp Luân Công tự lo cho bản thân trong mười tám năm qua.
Để đưa nỗ lực thao túng phương tiện truyền thông vào bối cảnh và hiểu mục đích của nó, chúng tôi thấy rằng một xã hội có hiểu biết từ chối sự tẩy chay nhóm nạn nhân thì có thể ngăn chặn được cuộc diệt chủng xảy ra. Thông tin sai lệch kéo dài làm suy yếu sự phản đối của công chúng đối với một cuộc diệt chủng đang diễn ra, do đó tạo ra một môi trường mà một cuộc diệt chủng lạnh có thể được duy trì.
Sự tinh tế của một cuộc diệt chủng lạnh có thể là cần thiết để duy trì trật tự và tính chính danh về chính trị. Một cuộc diệt chủng nóng, với khả năng hiển thị, cường độ và tác động của nó, có thể đẩy một xã hội vào hỗn loạn. Trong trường hợp của Trung Quốc, một cuộc diệt chủng nóng có thể khiến chế độ Trung Quốc mất uy tín. Bằng cách đảm bảo sự biến mất thầm lặng của các nạn nhân trong các hầm mộ của các trung tâm giam giữ và các bàn phẫu thuật, cuộc diệt chủng chậm rãi của Trung Quốc đối với Pháp Luân Công có thể được che giấu, xóa khỏi lịch sử chính thức và ký ức tập thể.
Bình thường hóa
Trong các cuộc diệt chủng lạnh, những hành động tàn bạo chống lại nhóm nạn nhân đã được chuẩn hóa. Bình thường hóa có nghĩa là đan xen tội diệt chủng vào cấu trúc của xã hội. Bình thường hóa xuất phát từ bá quyền, một phương thức thống trị chính trị thông qua hệ tư tưởng thay vì vũ lực. Chế độ cộng sản Trung Quốc đã sử dụng bá quyền chính trị để đạt được sự Bình thường hóa cho cuộc diệt chủng chống lại Pháp Luân Công. Việc truyền bá tinh vi nhưng lan rộng quan điểm của thủ phạm đã khiến người dân Trung Quốc tiếp thu những quan điểm này. Người dân đã được lập trình để chấp nhận sự bất công phi thường đối với Pháp Luân Công như một sự thật bình thường. Cải cách tư tưởng tinh vi đã chế ngự và thu phục những tiếng nói bất đồng chính kiến phản đối nạn diệt chủng, và đảm bảo tính bền vững và thành công lâu dài của chiến dịch chống Pháp Luân Công.
Tập trung vào việc bình thường hóa đòi hỏi phải xem xét lại khái niệm về sự hủy diệt đa chiều.
Tương tự như việc quỷ hóa và hủy hoại danh tiếng, việc bình thường hóa nạn diệt chủng cũng đòi hỏi phải tuyên truyền và công tác tư tưởng đối với dân chúng. Tuy nhiên, có những điểm khác biệt quan trọng giữa hai ý tưởng, giữa việc quỷ hóa một nhóm dân số mục tiêu và bình thường hóa nạn diệt chủng của nhóm dân số đó.
Đầu tiên, việc quỷ hóa thường đạt được thông qua tuyên truyền trực tiếp và rõ ràng trên phương tiện truyền thông. Ngược lại, bình thường hóa là một hiện tượng phức tạp hơn và nhiều cấp độ hơn, trong đó thông điệp được “truyền bá một cách tinh vi ở nhiều cấp độ của tổng thể văn hóa – ở các cấp độ chính trị, giáo dục, giải trí và lẽ thường”.
Thứ hai, việc ma quỷ hóa thường diễn ra dưới hình thức một niềm tin ý thức hệ có thể được diễn đạt và phản biện một cách có ý thức. Với việc bình thường hóa, những suy nghĩ và niềm tin đã ăn sâu vào tiềm thức đến mức chúng được coi là điều hiển nhiên và được chấp nhận như lẽ thường. Vì những lý do này, bình thường hóa là một hình thức cải cách tư tưởng toàn diện và tinh vi hơn so với việc ma quỷ hóa. Kết quả của việc bình thường hóa là sự vô ý; nó tạo ra một môi trường mà một cuộc diệt chủng lạnh có thể phát triển mạnh và đạt được sự xóa sổ theo thời gian. Chúng ta có thể thấy sự phát triển của việc bình thường hóa trong cuộc diệt chủng chống lại Pháp Luân Công. Phòng 610, với phạm vi và ảnh hưởng rộng lớn của mình đối với cả lĩnh vực dân sự và công cộng, đóng vai trò chủ chốt trong việc bình thường hóa những hành động tàn bạo chống lại Pháp Luân Công. Các chi nhánh của Phòng truyền tải thông điệp chống Pháp Luân Công thông qua việc thao túng các hoạt động văn hóa, giáo dục, triển lãm và các sự kiện cơ sở của những tổ chức như phụ nữ và thanh niên.
Ví dụ, trẻ em trong trường được đưa đi xem các cuộc triển lãm chống Pháp Luân Công. Ở thị trấn Sơn Nam, học sinh được yêu cầu xem các bản ghi âm về các học viên Pháp Luân Công từ bỏ đức tin của mình sau quá trình chuyển hóa. Trong giáo dục sau trung học, một điều kiện để được nhận vào học là học sinh phải chứng minh rằng họ đã có “thái độ đúng đắn” về Pháp Luân Công. Các hiệp hội khu phố được hướng dẫn tổ chức các buổi học để “thống nhất tư tưởng” chống lại Pháp Luân Công. Do đó, quan điểm của thủ phạm (ĐCSTQ) liên tục được củng cố đối với dân chúng thông qua trường học, nơi làm việc, phương tiện truyền thông, học thuật và văn hóa đại chúng.
Phòng 610 đã tận dụng thẩm quyền rộng lớn của mình để biến hoạt động chống Pháp Luân Công thành một nhiệm vụ thường xuyên và không thể thiếu đối với các tổ chức nhà nước và công cộng. Chiến dịch xóa bỏ Pháp Luân Công đã trở thành một thể chế xã hội và là một yếu tố của trật tự xã hội. Một ví dụ về sự thể chế hóa như vậy là việc tích hợp việc cưỡng bức thu hoạch nội tạng vào hệ thống y tế của nhà nước. Với Phòng 610 làm trung gian, hệ thống an ninh công cộng hoạt động theo chuỗi chỉ huy với cơ quan tư pháp, bệnh viện và cơ quan hành chính dân sự đã cưỡng bức thu hoạch nội tạng từ các học viên Pháp Luân Công. Sau hơn một thập kỷ hoạt động, hành vi cưỡng bức thu hoạch nội tạng – một hành vi tàn ác phi thường – đã được thể chế hóa và bình thường hóa thành chính sách chăm sóc sức khỏe.
Nguyên nhân cuối cùng của sự bình thường hóa mà chúng ta đề cập đến là sự thấm nhuần tính tàn ác và bạo lực thông qua lịch sử và văn hóa của ĐCSTQ. Theo triết lý đấu tranh của Đảng, bạo lực và sự tàn ác được hợp pháp hóa và tôn vinh như một phương tiện giải phóng và tự hoàn thiện. Bắt đầu từ sự lãnh đạo của Mao, Đảng đã áp dụng đấu tranh và bạo lực làm nguồn gốc của quyền lực chính trị. Như Mao đã nói một cách khét tiếng, “Đấu với trời, đấu với đất, đấu với người – ở đó có niềm vui vô tận”. Bạo lực mà Đảng sử dụng không chỉ đóng vai trò là phương tiện để giành giật và duy trì quyền lực. Việc sử dụng bạo lực liên tục biện minh cho bạo lực. Bằng cách tạo ra một nền văn hóa chính trị bạo lực thông qua việc sử dụng bạo lực thường xuyên và hỗ trợ tuyên truyền, Đảng tạo ra một xã hội mà bạo lực được coi là điều hiển nhiên.
Ngoài bối cảnh này, cuộc diệt chủng Pháp Luân Công có vẻ bất thường trong thời đại dường như là hòa bình và thịnh vượng ở Trung Quốc. Nếu chúng ta ghi nhớ lịch sử và văn hóa của Đảng, chúng ta có thể thấy rằng cuộc diệt chủng Pháp Luân Công mang hình thức của các chiến dịch bạo lực trong quá khứ vẫn tồn tại trong suốt lịch sử cai trị của ĐCSTQ. Các trại lao động cưỡng bức, trung tâm tẩy não và nhiều phương pháp tra tấn áp dụng cho các học viên Pháp Luân Công được kế thừa từ các hoạt động trong quá khứ. Người ta có thể thấy những điểm tương đồng đáng kinh ngạc giữa cuộc tấn công vào Pháp Luân Công và các phong trào “phản cách mạng” của Đảng trong quá khứ, chẳng hạn như Chiến dịch Tam phản và Ngũ phản, Phong trào Chống cánh hữu và Cách mạng Văn hóa. Cách thức hoạt động của mỗi chiến dịch đều giống nhau: đầu tiên, chế độ chỉ định nhóm nạn nhân bằng một nhãn hiệu xúc phạm như kẻ thù của Nhà nước hoặc phản cách mạng để kích động lòng căm thù và sự đối kháng trong dân chúng. Tiếp theo sau, các phương tiện truyền thông trên toàn quốc tố cáo và lên án mạnh mẽ nhóm nạn nhân. Sau đó, nhóm nạn nhân bị bắt giữ với số lượng lớn. Tiếp đó, chế độ này điều hành các tòa án bí mật, bịa đặt các cáo buộc, lục soát nhà cửa và thẩm vấn bằng tra tấn. Khi hành vi như vậy đối với những người bị xã hội ruồng bỏ được đưa vào văn hóa và cấu trúc của xã hội thông qua sự lặp lại liên tục, người dân sẽ chấp nhận những chiến dịch này như cách đối xử bình thường, được mong đợi đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Kết quả là, người dân không coi bạo lực và hành động tàn bạo là tội diệt chủng thực sự. Nỗi kinh hoàng của tội diệt chủng ẩn sau việc áp dụng bạo lực bình thường, tùy tiện đối với những người mà nhà nước xác định là kẻ thù. Việc áp dụng một kích thích theo thói quen sẽ dẫn đến sự tê liệt đối với kích thích đó, khiến việc tiêu diệt Pháp Luân Công trở thành điều bình thường trong xã hội.
.
Vấn đề phân loại
Việc phân loại chiến dịch chống Pháp Luân Công là một cuộc diệt chủng lạnh thực sự gây ra một số khó khăn. Những khó khăn này một phần xuất phát từ tính lưu động và sự tinh vi của khuôn khổ diệt chủng lạnh.
Trong trường hợp của Pháp Luân Công, những khó khăn này cũng phát sinh từ bản chất liên tục thay đổi của chiến dịch diệt trừ. Đặc biệt, ý định và động cơ mà những kẻ thực hiện chống lại Pháp Luân Công thể hiện điển hình hơn cho một cuộc diệt chủng nóng, chứ không phải là một cuộc diệt chủng lạnh. Điều này đặc biệt đúng ở giai đoạn đầu của chiến dịch xoá sổ. Trong một cuộc diệt chủng lạnh, việc tiêu diệt nhóm nạn nhân được các học giả coi là “không thể tránh khỏi chứ không phải là bắt buộc”. Có phải Pháp Luân Công cũng như vậy không?
Một mặt, mệnh lệnh của chế độ ĐCSTQ là xóa bỏ hoàn toàn Pháp Luân Công. Việc tiêu diệt Pháp Luân Công được tìm kiếm một cách trực tiếp, có ý thức và cố ý. Cường độ bạo lực, thiệt hại và lòng căm thù được thể hiện trong chiến dịch chống Pháp Luân Công cao hơn đáng kể so với cuộc diệt chủng lạnh nguyên mẫu được thấy trong bối cảnh thuộc địa và hậu thuộc địa. Có những chỉ thị chống Pháp Luân Công được lưu hành giữa các tổ chức Nhà nước và Đảng. Quyết tâm tiêu diệt Pháp Luân Công đã được công khai rộng rãi trong những năm 1999 đến 2001. Sau đó, chiến dịch lắng xuống ở Trung Quốc, nhưng theo các tài liệu do Ford và Noakes cung cấp, chế độ vẫn quyết tâm tiêu diệt Pháp Luân Công.
Mặt khác, không có luật nào cấm Pháp Luân Công. Phòng 610 là một cơ quan của Đảng chứ không phải là một Cơ quan Nhà nước. Chế độ đã thực hiện một loạt các bước chống lại Pháp Luân Công, nếu có hiệu quả, chắc chắn sẽ dẫn đến việc xóa sổ Pháp Luân Công. Pháp Luân Công giống như cá trong lưới, không có cơ hội thoát ra.
Trong mọi trường hợp, có những đặc điểm quan trọng trong chiến dịch chống Pháp Luân Công mà chỉ có thể giải thích bằng khuôn khổ của một cuộc diệt chủng lạnh. Một trong những đặc điểm như vậy là nỗ lực tiêu diệt Pháp Luân Công đồng thời trên các bình diện vật chất, tinh thần và xã hội. Trong chiến dịch này, sự hủy diệt sinh học không phải là tối quan trọng, mà chỉ là một thành phần trong một kế hoạch lớn hơn nhằm xóa bỏ hoàn toàn. Tương tự như vậy, chiến dịch chống Pháp Luân Công đã phát triển để phát triển các động lực không điển hình của cuộc diệt chủng nóng, nhưng mang đặc trưng của cuộc diệt chủng lạnh – sự tinh tế và bình thường hóa. Mặc dù chúng tôi thừa nhận những hạn chế trong việc mô tả Pháp Luân Công là một cuộc diệt chủng lạnh, chúng tôi tin rằng việc điều tra về hình thức diệt chủng mà Pháp Luân Công đã phải chịu không nên chỉ là một bài tập phân loại đơn thuần.
Diệt chủng, về bản chất, là những hiện tượng phức tạp. Việc đưa những sự kiện này vào những vùng giới hạn có thể hạn chế, thay vì thúc đẩy, sự hiểu biết của chúng ta về những tội ác hàng loạt như vậy. Với tinh thần tìm hiểu nghiêm túc, chúng tôi xem xét các cấu trúc phân tích trong các nghiên cứu diệt chủng đảm bảo sự linh hoạt và mềm dẻo.
Kết luận và khuyến nghị
Một cuộc điều tra phản biện về khái niệm diệt chủng đặt ra thách thức đối với trường phái truyền thống vốn chỉ tập trung vào cái chết sinh học và số lượng thi thể. Cuộc điều tra phản biện này cũng khuyến khích việc khám phá những lĩnh vực mới vốn bị gạt ra ngoài lề. Cuộc diệt chủng nhắm vào Pháp Luân Công, xét về quy mô, mức độ tàn bạo và sự tinh vi, là một thảm họa nhân quyền hàng đầu của thế kỷ 21. Tuy nhiên, cuộc tấn công này cho đến nay vẫn chưa được hiểu rõ và bị đánh giá thấp trong các nghiên cứu về diệt chủng.
Có thể phân tích chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công trong khuôn khổ truyền thống của khái niệm diệt chủng. Tuy nhiên, khuôn khổ này không đánh giá đúng mức các yếu tố vô hình, phi vật chất của quá trình xóa sổ – những yếu tố khiến cuộc tấn công trở nên thâm độc, mạnh mẽ và chết người. Chúng tôi đã cố gắng lý giải chiến dịch xóa sổ này thông qua một khuôn khổ thay thế, được truyền cảm hứng từ khái niệm “diệt chủng lạnh” của Anderson. Luận điểm trung tâm của chúng tôi là việc tiêu diệt Pháp Luân Công là một hình thức diệt chủng lạnh bởi vì nền tảng tư tưởng được xây dựng công phu và sự ngụy trang tinh vi đã dẫn đến một cuộc diệt chủng mang tính đa chiều, kín đáo và được bình thường hóa. Ba đặc điểm này xác định Pháp Luân Công là một trường hợp diệt chủng lạnh. Đồng thời, chúng cũng giải thích vì sao chiến dịch chống lại Pháp Luân Công lại ít được đề cập đến trong các nghiên cứu về diệt chủng và có thể kéo dài trong suốt một thời gian dài như vậy.
Cuộc điều tra phản biện về cuộc diệt chủng nhắm vào Pháp Luân Công mở ra những hướng đi mới để các học giả có thể thấu hiểu những động lực và sắc thái mới trong các tội ác của nhà nước Trung Quốc. Pháp Luân Công không phải là nhóm duy nhất bị chế độ cộng sản Trung Quốc tấn công, nhưng đã trở thành mục tiêu chính trong chiến dịch xóa sổ. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đầu tư một lượng lớn tài nguyên của đất nước vào chiến dịch này. Cuộc điều tra hiện tại cũng cung cấp một lăng kính diễn giải mới, cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về sự đàn áp đối với các nhóm khác tại Trung Quốc.
Các nghiên cứu về diệt chủng, về bản chất, là nghiên cứu về sự bất khoan dung ở mức độ cực đoan. Do đó, chúng cần phản ánh những biểu hiện thay đổi của sự bất khoan dung này. Các định nghĩa và lý thuyết về diệt chủng cần phải thích nghi với thực tế đó. Một số khía cạnh trong chiến dịch chống lại Pháp Luân Công không dễ dàng phù hợp với các phân loại truyền thống. Chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công mang những đặc điểm riêng biệt. Mục đích của bài viết không chỉ là áp dụng các phân loại truyền thống vào chiến dịch này, mà còn nhằm khơi dậy một cuộc thảo luận về những giới hạn của các phân loại đó trong bối cảnh của chiến dịch này.
Mặc dù mục đích của bài viết là học thuật, nhưng sẽ là thiếu sót nếu chúng tôi không kèm theo, dựa trên những phân tích đã nêu, một lời kêu gọi hành động. Chiến dịch xóa sổ Pháp Luân Công đã kéo dài suốt mười tám năm, với rất ít sự phản đối từ bên ngoài cộng đồng Pháp Luân Công. Đã đến lúc cộng đồng quốc tế phải lên tiếng về chiến dịch xóa bỏ này và thực hiện các bước để chấm dứt tình trạng lạm dụng. Một nghiên cứu về một cuộc diệt chủng đang diễn ra không thể chỉ là một diễn ngôn lý thuyết. Tất cả chúng ta đều nên cố gắng để chấm dứt nó.
Các cuộc diệt chủng lạnh diễn ra chậm rãi. Điều đó đồng nghĩa với việc vẫn còn thời gian để phản ứng. Tuy nhiên, việc đối phó với một cuộc diệt chủng lạnh đòi hỏi phải nhận diện, thấu hiểu và vượt qua được văn hóa thù địch đi kèm với sự hủy diệt về thể xác. Nếu không, mọi biện pháp đối phó, mọi hành động cứu trợ, sẽ là quá muộn – chỉ còn là giải pháp sau khi thảm họa đã hoàn tất.
Lời cảm ơn
Bài viết này được dành tặng cho những công dân Trung Quốc đã bị sát hại một cách oan uổng vì đức tin tâm linh của họ.
Đức Hậu (Dịch từ : https://digitalcommons.usf.edu/gsp/vol12/iss1/6/)


