“Bánh đúc có xương” – Đạo lý người xưa

“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng?”

Câu nói ấy lưu truyền trong dân gian dường như mặc định một điều: Mối quan hệ giữa mẹ kế – con chồng là mối nhân duyên khó hòa thuận, nhiều mâu thuẫn phức tạp, sự hòa hợp giữa họ dường như không dễ dàng có được. Thế nhưng, gương sáng người xưa đã có không ít trường hợp “bánh đúc” lại “có xương” để lại nhiều bài học cho hậu thế.

“Mẹ kế” – từ ngữ thường gợi liên tưởng đến cảm giác không mấy dễ chịu do những định kiến từ xa xưa. Những người làm mẹ kế cũng chịu những áp lực lớn từ xã hội, hoặc trong chính gia đình mình khiến họ cảm thấy mặc cảm, bị thiệt thòi…. Người ta vẫn hay có cái nhìn khắt khe với người mẹ kế. Do vậy, vô hình trung người mẹ kế thường mang những gánh nặng trong tâm, những nỗi phiền muộn mà con riêng của chồng khó hiểu được. Nhất là xã hội ngày nay, khi cái tôi của mỗi cá nhân được đẩy lên cao trào, mâu thuẫn giữa người và người thường ngày càng nặng nề, thì mối quan hệ muôn thuở mẹ kế – con chồng trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết.

Ngoài ra, sự khác biệt về tính cách, quan điểm sống, hoặc sự ích kỉ cá nhân cũng là vách ngăn ngăn trở trong mối quan hệ “dì ghẻ – con chồng”, vậy nên có không ít trường hợp “mẹ kế” không thương “con chồng”.

Làm thế nào có thể tìm được lời giải tốt đẹp cho vấn đề trên? Có câu nói: “Ôn cố tri tân”, nhìn lại những câu chuyện của tiền nhân, mỗi người có thể có bài học và câu trả lời cho nút thắt này.

Uông thị chịu cực khổ, nuôi ba con riêng của chồng thành tài

Chuyện cổ kim tốt đẹp về mẹ kế – con chồng không hề hiếm và không thể không kể đến nàng Uông thị – người phụ nữ xinh đẹp, thông minh đã chịu cực khổ không một lời oán than nuôi nấng, dạy dỗ ba con riêng của chồng thành tài.

Thời Khang Hy, có nàng Uông thị được gả cho một người Mãn Châu tên là Đồng Trinh làm quan đến Cung chiêm (thư ký của thái tử, thuộc Phủ Thư ký Đông cung). Người vợ đầu của Đồng Trinh sinh được ba người con trai nhưng không may qua đời. Uông thị khi về nhà chồng, đặc biệt yêu thương, coi chúng như con ruột, không có sự phân biệt.

Đồng Trinh tính cách cương trực, vì xử lý một vụ án quá kịch liệt, nên các triều thần tố cáo ông lên hoàng đế, kết quả ông bị giáng chức, bị tịch thu tài sản, gia cảnh trở nên bần khốn, không lâu sau thì mất. Uông thị khóc lóc thảm thiết, quyết tâm chết cùng chồng. Nhưng sau đó bà lại nghĩ không ai chăm sóc các con; trái tim bà trở nên cứng cỏi, nghị lực phi thường.

Tuy gia cảnh nghèo khó nhưng bà luôn hy vọng ba người con học thành tài, bà đã cầm cố y phục, trang sức để mua kinh thư, giấy bút cho con học; cắt nửa ngôi nhà làm thư viện. Về sau không thể cầm cự được nữa, bà tự mình dạy học cho các con. Một tay bà quay tơ dệt vải, tay kia cầm đọc kinh thư. Ba người con trai đứng bên cạnh, quan sát và lắng nghe. Đôi khi trời lạnh cóng, ánh đèn nhỏ như hạt đậu, lửa trong bếp không cháy đỏ được, mưa gió lạnh buốt làm vỡ cửa sổ, nhưng bà vẫn nắm tay các con, chỉ vào những trang sách và đọc rõ từng chữ, bà nghẹn lại nức nở, nước mắt chan hòa trên mặt.

Uông thị vất vả nuôi dạy con mười năm, được một đời phú quý, con làm quan đến tổng đốc, bản thân bà được phong tước thái phu nhân nhất phẩm, khổ tận cam lai, thành đạt nguyện vọng thủ tiết với chồng. (Bức tranh cho thấy một phần bức tranh "Phỏng Triệu Bá Túc hậu xích bích đồ" của Văn Trưng Minh thời nhà Minh. Ảnh: Phạm vi công cộng)
Uông thị vất vả nuôi dạy con mười năm, được một đời phú quý, con làm quan đến tổng đốc, bản thân bà được phong tước thái phu nhân nhất phẩm, khổ tận cam lai, thành đạt nguyện vọng thủ tiết với chồng. (Bức tranh cho thấy một phần bức tranh “Phỏng Triệu Bá Túc hậu xích bích đồ” của Văn Trưng Minh thời nhà Minh. Ảnh: Phạm vi công cộng)

Những người con trai đứng cạnh cũng bắt đầu khóc, thế là bà tắt đèn, đóng sách lại và đi ngủ. Gối, chăn trên giường đều rách, chiếu cũng rách, nhưng bà vẫn bảo các con nằm trên giường học và ôn lại kỷ niệm. Khoảng năm giờ sáng, bà Uông đã thức dậy, mở sách ra và gọi các con lại học.

Sau đó, họ không có tiền thuê nhà, bốn mẹ con dựng túp lều tranh bằng rơm, chỉ có cháo vào buổi tối. Bà dạy ba người con trai của mình lập chí học hành, kế tục di chí của cha. Khi con lười biếng, vô tâm hoặc mải chơi, bà Uông kêu trời, khóc lóc thảm thiết, tự oán trách mình. Ba người con sợ hãi lập tức quỳ xuống trước mặt mẹ, thừa nhận lỗi lầm và sửa chữa, hứa từ nay sẽ nghe theo lời mẹ dạy, không dám liều lĩnh nữa.

Khoảng mười năm sau, cả ba người con đều đỗ cử nhân. Vào năm thứ 50 đời vua Khang Hy, người con trai thứ ba của bà là Mẫn Bảo được thăng làm Phủ đài Phúc Kiến. Vào năm thứ 54 đời vua Khang Hy, Mẫn Bảo được thăng làm Tổng đốc hai tỉnh Chiết Giang – Phúc Kiến. Lúc này, mẹ của ông là Uông thị đã thành thái phu nhân, cùng con đến nha môn hưởng phúc.

Khi bà mất, khuôn mặt bà vẫn rạng rỡ, thần thái ngời ngời. Thái phu nhân hưởng thọ 70 tuổi, được mọi người ca ngợi là phúc lộc thọ toàn vẹn.

Hậu thế khi soi chiếu tấm gương tiền nhân, có thể thấy người xưa chấp nhận mối duyên mẹ kế – con chồng bằng phong thái nhẹ nhàng, không phân tranh được – mất. Tấm lòng thiện lương, bao dung, nhẫn nại đã khiến tên tuổi bà Uông lưu truyền sử sách về một người mẹ kế sẵn sàng dành cả tuổi xuân, sức lực và cả cuộc đời mình để nuôi dưỡng, dạy dỗ, thành tựu con riêng của chồng; đối với bà, chưa bao giờ nghĩ rằng những đứa con là “con riêng của chồng”. Tình mẫu tử dù không máu mủ nhưng với tình yêu thương vô điều kiện, bà không chỉ cảm hóa mà còn dạy dỗ chúng thành danh.

Uông thị đã vượt qua những định kiến về mẹ kế, vượt qua những tư tâm vị kỉ của một người bình thường để lưu danh thiên cổ về người mẹ kế giàu đức hy sinh và lòng vị tha. Chỉ có tâm thái cao thượng, nghĩ cho người mới có thể làm cảm phục được lòng người.

Cuộc đời của bà Uông cũng là minh chứng rõ ràng cho câu “khổ tận cam lai”, dùng “nhân lành” để hái “quả ngọt” về sau.

Tác giả Thảo Nguyên

Bài viết liên quan

Van-hoa-Trung-Quoc-la-nen-van-hoa-Than-truyen

Đặc điểm của Văn hóa Trung Quốc

Sapo: “Văn hóa Thần truyền, Nội tâm, Lễ” - đó là ba đặc điểm cốt lõi của nền văn hóa Trung Quốc đa dạng và sâu sắc, cũng là đặc điểm nổi bật của nền văn hóa phương Đông
Tại sao cần phải "tích Đức, hành Thiện"?

Tại sao cần phải “tích Đức, hành Thiện”?

Trong thời đại kim tiền ngày nay có không ít người sống với phương châm: “Tiền có thể mua được tất cả”. Người ta không ngại dùng hết sức lực và thời gian của cuộc đời mình để lao vào vòng xoáy tranh đấu, giành giật giữa người với người. Còn đâu lời cha ông…